[RAT] Tài liệu khá hay về Tranh tụng trong Tố tụng hình sự Việt Nam 2003 - Nên đọc


Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1 Một số vấn đề lý luận về tranh tụng trong tố tụng hình sự.
1.1.1 Khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự.
Hiện nay trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và trong thực tiễn hoạt động chưa có được khái niệm cụ thể, chung nhất về tranh tụng trong tố tụng hình sự, nhưng đã có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tranh tụng.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, tranh tụng “được dùng theo nghĩa Hán nôm để chỉ 1 cuộc tranh luận (tranh cãi) về một vụ án bằng cách các bên tham gia đưa ra các lý lẽ, chứng cứ và các văn bản pháp luật làm cơ sở cho sự buộc tội hay bào chữa của mình để người thứ ba đứng giữa hai bên là Tòa án làm trọng tài phán xử” (1).
- Quan điểm thứ hai cho rằng, tranh tụng là “một quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án, đồng thời cũng chính là phương tiện để đạt mục đích, các nhiệm vụ đặt ra của luật tố tụng hình sự và bảo đảm cho các chủ thể tham gia vào quá trình TTHS có thể thực hiện một cách có hiệu quả nhất chức năng của mình ở tất cả các giai đoạn của quá trình TTHS” (2)
- Quan điểm thứ ba cho rằng tranh tụng trong TTHS là “quá trình cọ xát các quan điểm , lập luận về vụ án giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa tham gia vào quá trình TTHS nhằm xác định sự thật khách quan về vụ án và quá trình tranh tụng, chỉ thực sự được tiến hành khi có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát của Tòa án”(3).
- Quan điểm thứ tư cho rằng, tranh tụng là “hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên TGTT (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại quan điểm và lợi ích của phía đối lập” (4)
Chúng tôi thấy rằng:
+ Quan điểm thứ nhất, đã có sự nhầm lẫn khi đồng nhất khái niệm tranh tụng và khái niệm tranh luận. Tranh luận chỉ là một thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm, theo đó các bên tham gia thông qua phần trình bày của mình, tổng hợp và đánh giá kết quả của phần xét hỏi, phân tích và đánh giá các chứng cứ của vụ án để thuyết phục HĐXX chấp nhận những đề xuất của mình và bác bỏ đề xuất của đối tượng. Do đó, tranh luận là sự thể hiện rõ nét nhất, tập trung nhất và là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng chứ không phải là tranh tụng.
+ Quan điểm thứ hai chưa đủ cơ sở thuyết phục. Bởi vì, quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án thực chất là quá trình chứng minh tội phạm còn tranh tụng là một trong những tiền đề quan trọng để xác định sự thật khách quan về một vụ án nhằm đạt được mục đích của TTHS. Do đó không thể đồng nhất quá trình tranh tụng với quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án.
+ Quan điểm thứ ba chưa phù hợp với cả về lý luận và thực tiễn. Bởi lẽ, quá trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến hành khi có sự hiện diện đầy đủ của bên buộc tội và bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát của Tòa án là chưa đầy đủ, nó phủ nhận sự tranh tụng thực tế giữa hai chức năng buộc tội và bào chữa ở các giai đoạn trước khi xét xử.
+ Quan điểm thứ tư, nêu chưa đầy đủ, chưa thấy được tranh tụng là một quá trình đối trọng giữa hai chức năng buộc tội và bào chữa và chỉ dừng lại ở hoạt động tố tụng của bên buộc tội và bên bị buộc tội. Vì quá trình tố tụng là tập hợp nhiều hoạt động tố tụng nối tiếp nhau trong thời gian theo một trình tự nhất định, còn hoạt động tố tụng của các bên buộc tội và bị buộc tội thực chất là hoạt động do các chủ thể của hai chức năng buộc tội và bào chữa thực hiện. Mặt khác quan điểm này cũng chưa làm rõ dấu hiệu cơ bản của tranh tụng là sự bình đẳng giữa hai chức năng buộc tội và bào chữa.
+ Quan điểm thứ năm cho rằng, tranh tụng là “quá trình tồn tại, vận động và đấu tranh giữa các chức năng đối trọng nhau, có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ ý kiến, lập luận và lợi ích của mình và phản bác lại ý kiến, lập luận, lợi ích của phía bên kia. Chức năng buộc tội và chức năng bào chữa”(5)
Chúng tôi đồng tình với quan điểm này. Vì khái niệm tranh tụng trong khoa học Luật TTHS được hiểu theo ba nghĩa đó là: Qúa trình tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng, mô hình tranh tụng. Tranh tụng là một quá trình tố tụng để đi đến chân lý khách quan, đồng thời tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản phản ánh tính khách quan của quá trình đó, ngoài ra tranh tụng còn là một mô hình tranh tụng trong đó có sự tranh luận bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Tranh tụng là quá trình tồn tại, vận động và đấu tranh giữa chức năng buộc tội và chức năng bào chữa. Qúa trình này là một qui luật khách quan và đây chính là nguyên tắc cơ bản của TTHS. Tranh tụng còn là một hình thức (mô hình) tranh tụng mà ở đó có sự thừa nhận nguyên tắc tranh tụng như là nguyên tắc cơ bản của hoạt động  TTHS xuyên suốt các giai đoạn của nó, các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng bình đẳng với nhau, được tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hiện các chức năng tương ứng.
Tham gia vào quá trình tranh tụng luôn có sự hiện diện của các chủ thể bên buộc tội và bên bị buộc tội (còn gọi là bên gỡ tội hay bên bào chữa) để thực hiện chức năng buộc tội và chức năng bào chữa, mỗi chủ thể có địa vị pháp lý và tư cách tham gia tranh tụng khác nhau. Hai chức năng này có vai trò đối trọng và phủ định lẫn nhau, bình đẳng với nhau trong hoạt động chứng minh, trong việc đưa ra yêu cầu và giải quyết những yêu cầu đó trước Tòa án.
Theo nhận thức của chúng tôi thì tranh tụng là quá trình thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập (chức năng buộc tội và chức năng bào chữa), tạo thành những mâu thuẫn và là cơ sở cho sự phát triển, ra đời cái mới (chân lý sự thật khách quan của vụ án). Sự vận động, tồn tại của chức năng buộc tội làm tiền đề, cơ sở cho sự tồn tại, vận động của chức năng bào chữa và ngược lại chính là quá trình thống nhất giữa hai mặt đối lập. Chức năng buộc tội và chức năng bào chữa tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau chính là quá trình đấu tranh giữa hai mặt đối lập.
1.1.2 Phân biệt tranh tụng và tranh luận:
Chúng ta khẳng định và thừa nhận tranh tụng và tranh luận, luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng không đồng nhất với nhau, tranh tụng và tranh luận không chỉ tồn tại trong luật tố tụng mà còn tồn tại cả trong Luật Dân sự, Lao động, Thương mại, Hành chính .v.v… Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ phân biệt tranh tụng và tranh luận trong phạm vi khoa học luật TTHS.
Tranh tụng là một quá trình tố tụng để đi đến chân lý khách quan và là nguyên tắc cơ bản phản ánh tính khách quan của quá trình đó, đồng thời là một mô hình tố tụng thể hiện cách thức tổ chức, hoạt động TTHS phù hợp với qui luật khách quan của nó là tranh tụng và thừa nhận tranh tụng là nền tảng xuyên suốt toàn bộ hoạt động TTHS. Tranh tụng là quá trình tồn tại, vận động và đấu tranh giữa hai chức năng đối trọng nhau có quyền ngang nhau trong bảo vệ ý kiến, lập luận, lợi ích của mình và phản bác ý kiến, lập luận, lợi ích của phía bên kia, đó là chức năng buộc tội và chức năng bào chữa.
Tranh luận “là một thủ tục, một phần độc lập của phiên tòa HSST, trong đó các bên buộc tội và bào chữa thông qua phần trình bày bằng lời nói của mình tổng hợp và đánh giá kết quả của phần xét hỏi, phân tích và đánh giá các chứng cứ của vụ án, đưa ra những đánh giá về chính trị – xã hội và đánh giá pháp lý đối với các hành vi của bị cáo bị truy tố, đề nghị hình phạt, mức hình phạt cũng những vấn đề liên quan mà Tòa án phải giải quyết khi nghị án” (6).
Thủ tục tranh luận tạo cơ hội để các bên tranh tụng trình bày những đánh giá có tính kết luận của mình về các vấn đề của vụ án nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận những đề nghị của mình và bác bỏ những đề nghị của phía bên kia. Thủ tục tranh luận là sự thể hiện đậm nét nhất, tập trung nhất nội dung của nguyên tắc tranh tụng. Không có sự tranh luận bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa thì không thể nói đến nguyên tắc tranh tụng được. Ngược lại, khi đã thừa nhận nguyên tắc tranh tụng như một nguyên tắc cơ bản của TTHS thì không thể không đề cấp đến sự bình đẳng của các bên tranh tụng trong thủ tục tranh luận tại phiên tòa HSST.
Tranh luận có nội hàm hẹp hơn tranh tụng, là một phần của quá trình tranh tụng, là sự thể hiện tập trung nhất của quá trình tranh tụng. Chức năng buộc tội xuất hiện kéo theo sự xuất hiện của chức năng bào chữa và đây là thời điểm bắt đầu của quá trình tranh tụng. Qúa trình tố tụng lúc này mang tính tranh tụng, trải qua nhiều giai đoạn với các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử.
BLTTHS hiện hành qui định thủ tục tranh luận tại Chương XXI từ Điều 217 đến Điều 221, là một thủ tục độc lập của phiên tòa HSST, nó là sự nối tiếp của thủ tục xét hỏi. Khi các tài liệu, chứng cứ và những vấn đề liên quan đến vụ án đã được kiểm tra, xem xét đầy đủ thì Phiên tòa sẽ được chuyển từ thủ tục xét hỏi sang thủ tục tranh luận.
1.2 Một số vấn đề lý luận về phiên tòa HSST:
1.2.1 Khái niệm phiên tòa HSST:
Ở góc độc chung nhất về mặt ngôn ngữ, Phiên tòa là “lần họp để xét xử của Tòa án”(7). Như vậy chúng ta có thể hiểu phiên tòa là lần họp của Tòa án để xét xử một vụ việc nào đó.
Ở góc độ thuật ngữ pháp lý, phiên tòa là “hình thức hoạt động xét xử của Tòa án”(8). Hình thức xét xử này rất đặc thù, được tiến hành theo một trình tự, thủ tục rất chặt chẽ của pháp luật. Tùy thuộc vào loại tranh chấp pháp lý mà chúng ta có thể phân ra phiên tòa xét xử đối với các vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh tế, hành chính.v.v…
Theo BLTTHS hiện hành, về hình sự có bốn loại hình xét xử là: Xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm và xét xử tái thẩm. Trong đó xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm (hay còn gọi là phiên tòa HSST, phiên tòa hình sự phúc thẩm) là hai cấp xét xử của Tòa án.
Phiên tòa HSST, là hình thức thực hiện chức năng xét xử của Tòa án. Mối quan hệ giữa phiên tòa HSST và chức năng xét xử là biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa hình thức và nội dung. Chức năng xét xử có vai trò quyết định đối với phiên tòa HSST và phiên tòa hình sự phúc thẩm cũng tác động trở lại đối với chức năng xét xử. Như vậy chức năng xét xử chỉ có thể thực hiện một cách tốt nhất thông qua hình thức phiên tòa, đặc biệt là phiên tòa HSST.
Phiên tòa HSST được coi là cấp xét xử thứ nhất và là trung tâm của quá trình tố tụng, có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề cơ bản của vụ án. Tại đây điễn ra các hoạt động quan trọng nhất của toàn bộ tiến trình TTHS, bởi vì:
- Các hoạt động tố tụng diễn ra trước khi mở phiên tòa HSST như khởi tố, điều tra, truy tố đều nhằm mục đích đưa người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội phạm ra xét xử bằng một phiên tòa và mong muốn có một bản án nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tòa án là chủ thể duy nhất được pháp luật giao thực hiện chức năng xét xử mà cụ thể là việc tổ chức phiên tòa. Các hoạt động trước khi mở phiên tòa HSST là sự chuẩn bị, là những giả thiết cho phiên tòa và phiên tòa HSST kiểm tra, đánh giá những kết quả đạt được của các hoạt động trước đó như điều tra, truy tố.v.v…
- Phiên tòa HSST là nơi hội tụ đầy đủ cả ba chức năng cơ bản của TTHS buộc tội, bào chữa và xét xử một cách rõ nét nhất. Phiên tòa HSST là nơi giải quyết sự xung đột pháp lý giữa hai bên tranh tụng, bên buộc tội và bên bào chữa, Tòa án là người trọng tài đứng giữa hai bên để phân xử. Trên cơ sở tranh tụng của hai bên, Tòa án căn cứ vào các qui định của pháp luật hình sự và TTHS, lựa chọn phương án áp dụng pháp luật chính xác để đưa ra phán quyết. Có thể nói rằng phiên tòa HSST là nơi có điều kiện tốt nhất để thực hiện việc áp dụng đúng đắn pháp luật.
- Chỉ có thông qua phiên tòa và chỉ có chủ thể duy nhất là Tòa án thực hiện chức năng xét xử thì bị cáo mới bị tuyên bố có tội hay không có tội, nếu có tội thì tội gì, hình phạt được áp dụng như thế nào và quyết định các vấn đề khác có liên quan. Điều này thể hiện phiên tòa HSST là nơi thực hiện triệt để nhất nguyên tắc “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật”. Theo qui định tại Điều 72 Hiến pháp năm 1992 và Điều 9 BLTTHS năm 2003.
- Tại phiên tòa HSST mọi tài liệu, chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra phải được đưa ra kiểm tra, xem xét công khai mặc dù các tài liệu, chứng cứ này là cơ sở để Tòa án đưa ra xét xử nhưng đó không phải là cái chuẩn mực, cái tất yếu. Những tài liệu, chứng cứ nếu không được kiểm tra, xem xét công khai tại phiên tòa thì không được dùng làm căn cứ để HĐXX quyết định khi nghị án và tuyên án.
- Thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa HSST, Tòa án phát hiện ra những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, nguyên nhân chủ quan, khách quan, những thiếu sót trong hoạt động tố tụng cũng như trong công tác quản lý, từ đó kiến nghị các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề ra những biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và các biện pháp xử lý vi phạm, tội phạm. Đồng thời thông qua phiên tòa HSST còn góp phần vào việc phổ biến, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
1.2.2 Bản chất của phiên tòa HSST.
Có thể khẳng định phiên tòa HSST là trung tâm giải quyết thực chất vụ án hình sự, khác với các phiên tòa khác như: Phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, tính chất phiên tòa HSST nhằm ra bản án hoặc quyết định hợp pháp và có căn cứ. Tính hợp pháp là sự tuân thủ nghiêm chỉnh tất cả các yêu cầu của pháp luật và chỉ dựa trên cơ sở pháp luật. Tính căn cứ là tất cả các tình tiết của vụ án được xác định hoàn toàn đầy đủ và phù hợp với sự thật khách quan. Còn tính chất phiên tòa hình sự phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị (qui định tại Điều 230 BLTTHS). Tính chất phiên tòa giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án (qui định tại Điều 272 BLTTHS). Tính chất của phiên tòa tái thẩm chỉ được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó (qui định tại Điều 290 BLTTHS).
Như vậy bản chất của phiên tòa HSST, chính là hình thức thể hiện chức năng xét xử của Tòa án, là hoạt động áp dụng pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, áp dụng những qui định cụ thể của pháp luật hình sự và TTHS vào các sự kiện pháp lý cụ thể trong vụ án hình sự. Hay nói cách khác: phiên tòa HSST là sự áp dụng quyền lực Nhà nước vào trường hợp cụ thể.
Phiên tòa HSST hội tụ đầy đủ ba chức năng cơ bản của TTHS, đó là chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử, chúng có mối quan hệ khăng khít, hữu cơ với nhau, mỗi chức năng tồn tại và vận động trong chừng mực tồn tại và vận động của chức năng còn lại, chức năng buộc tội và bào chữa là đối trọng nhau, chức năng xét xử đứng ở vị trí trung tâm với vai trò trọng tài. Tại phiên tòa HSST, bằng thủ tục công khai, toàn diện, Tòa án thực hiện cuộc điều tra chính thức để xác định sự thật khách quan của vụ án, có nhiệm vụ kiểm tra kết quả điều tra, khắc phục những thiếu sót, vi phạm pháp luật ở các giai đoạn trước. Tòa án ra bản án, quyết định sơ thẩm trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ được thu thập và kiểm tra công khai tại phiên tòa. Hoạt động chứng minh tại phiên tòa HSST được các chủ thể bên buộc tội và bên bào chữa cùng các chủ thể khác có liên quan thực hiện một cách bình đẳng và dân chủ trong thủ tục xét hỏi cũng như tranh luận tại phiên tòa dưới sự điều khiển của HĐXX. Hoạt động chứng minh của Tòa án là HĐXX phải làm rõ các tình tiết của vụ án cả các tình tiết buộc tội và gỡ tội cũng như toàn bộ các vấn đề cần giải quyết trong vụ án để thực hiện chức năng xét xử của mình, cuối cùng là ra một bản án hay quyết định sơ thẩm công minh, đúng pháp luật. Mặt khác, phiên tòa HSST là nơi đảm bảo đầy đủ nhất sự tham gia cũng như quyền và nghĩa vụ tố tụng của những người TGTT bằng thủ tục tố tụng dân chủ, trực tiếp công khai.
1.2.3 Nội dung của phiên tòa HSST.
Nội dung của phiên tòa HSST là mặt bên trong, được hình thức phiên tòa HSST chứa đựng hoặc biểu hiện, nó được thể hiện qua một số điều kiện chung và các thủ tục tại phiên tòa.
a. Một số điều kiện chung của phiên tòa HSST.
+ Thẩm quyền xét xử sơ thẩm:
Pháp luật TTHS Việt Nam qui định thẩm quyền xét xử của Tòa án tại các Điều 170, 171, 172, 193 BLTTHS năm 2003. Đó là thẩm quyền theo vụ việc, thẩm quyền theo người và thẩm quyền theo lãnh thổ. Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự và Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT ngày 18-4-2005 của Tòa án nhân dân tối cao – VKS nhân dân tối cao – Bộ quốc phòng – Bộ công an hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, Nghị quyết số 523/2004/NQ-UBTVQH ngày 29-4-2004 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc giao thẩm quyền xét xử theo khoản 1 Điều 1 cho Tòa án cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực cũng qui định về thẩm quyền xét xử.
+ Điều kiện về HĐXX sơ thẩm.
Theo pháp luật TTHS Việt Nam, thành phần HĐXX sơ thẩm gồm đa số những người không chuyên làm Hội thẩm (Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân) cùng với thiểu số Thẩm phán. Việc qui định Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân là một thành viên của HĐXX là một trong những hình thức bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân và là hình thức nhân dân tham gia giám sát hoạt động của Nhà nước.
BLTTHS qui định, nếu bị cáo là người chưa thành niên thì thành phần HĐXX sơ thẩm phải có một hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ đoàn thanh niên (qui định tại Điều 307), vì họ là những người có hiểu biết về tâm lý và có kinh nghiệm về giáo dục người chưa thành niên.
Một trong các nội dung và điều kiện HĐXX là thay thế thành viên HĐXX trong trường hợp đặc biệt (qđ tại Điều 186 BLTTHS) nhằm đảm bảo cho phiên tòa không phải bị hoãn nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc xét xử liên tục, thay thế nhưng không ảnh hưởng đến việc xét xử hoặc phải tiến hành xét xử vụ án lại từ đầu.
+ Điều kiện về thời hạn mở phiên tòa và giao quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án.
Điều 176 BLTTHS qui định thời hạn mở phiên tòa, nhằm mục đích đảm bảo cho phiên tòa được mở trong thời hạn luật định cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo cùng những người TGTT khác.
Điều 182 BLTTHS qui định thời hạn giao quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo, người đại diện hợp pháp và NBC của họ, nhằm tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho NBC hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo, được niêm yết công khai khi xét xử vắng mặt bị cáo là cũng không nằm ngoài mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
+ Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục.
Điều kiện này được qui định tại Điều 184 BLTTHS. Đây là những nguyên tắc quan trọng của việc tiến hành phiên tòa, điều kiện có thể thừa nhận tính hợp pháp của phiên tòa. Những nguyên tắc này đảm bảo cho việc xét xử chính xác, khách quan; đảm bảo cho HĐXX điều khiển quá trình tranh tụng của các bên, ra bản án, các quyết định sơ thẩm trên cơ sở điều tra chính thức và tranh luận công khai, cân nhắc các ý kiến của KSV, bị cáo, NBC và những người TGTT khác tại phiên tòa.
+ Sự có mặt của KSV.
Theo pháp luật TTHS Việt Nam, KSV tham gia phiên tòa HSST với hai chức năng là buộc tội và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS mà cụ thể là kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa. Sự tham gia của KSV tại phiên tòa HSST là bắt buộc, điều này xuất phát từ chức năng buộc tội của KSV. KSV thực hành quyền công tố tại phiên tòa HSST là một hình thức của chức năng buộc tội, đây là hình thức buộc tội nhân danh Nhà nước. VKS truy tố bị can bằng bản Cáo trạng ra trước Tòa án, KSV phải có nghĩa vụ bảo vệ bản Cáo trạng đó, phải chứng minh cho HĐXX thấy việc truy tố của VKS là có căn cứ. Do vậy, khi KSV vắng mặt tại phiên tòa, tức là không có người nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội thì không có phiên tòa. Bởi vậy, Điều 189 BLTTHS qui định KSV vắng mặt, bị thay đổi mà không có KSV dự khuyết để thay thế thì HĐXX hoãn phiên tòa.
+ Sự có mặt của bị cáo.
Điều 187 BLTTHS qui định về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa HSST là bắt buộc nhằm để thực hiện tốt nguyên tắc xét xử trực tiếp, bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa tại phiên tòa theo qui định của pháp luật. Ngoài ra, pháp luật cũng qui định Tòa án có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong một số trường hợp được qui định tại khoản 2 Điều 187 BLTTHS.
+ Sự có mặt của NBC.
NBC tham gia phiên tòa HSST theo hai khả năng và điều kiện đó là: Do bị cáo, gia đình, thân nhân của bị cáo mời hoặc do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu và được Tòa án chấp nhận. Khi đã được Tòa án chấp nhận thì NBC có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Sự tham gia phiên tòa của NBC là một đảm bảo pháp lý quan trọng cho việc thực hiện quyền bào chữa của bị cáo. Đồng thời, sự có mặt của NBC tại phiên tòa còn đảm bảo cho việc tranh tụng của bên bào chữa đạt hiệu quả.
Trước đây, tại Điều 65 BLTTHS năm 1988 qui định, nếu NBC vắng mặt nhưng có gửi trước bản bào chữa thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử. Quy định này đã gây không ít khó khăn cho Tòa án, vì nếu NBC không gửi trước bản bào chữa thì Tòa án phải hoãn phiên tòa. Để khắc phục tồn tại này, Điều 190 BLTTHS năm 2003 qui định, nếu NBC vắng mặt thì Tòa án vẫn phải mở phiên tòa xét xử. Quy định này đã nâng cao trách nhiệm của NBC và hạn chế tình trạng án quá luật định vì phải hoãn phiên tòa do vắng NBC. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp vắng mặt NBC thì Tòa án vẫn có thể hoãn phiên tòa. Mọi trường hợp NBC do bị cáo mời mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án. Trường hợp bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, bị cáo bị xét xử về tội có mức hình phạt cao nhất là tử hình mà NBC vắng mặt thậm chí đã gửi trước bản bào chữa thì HĐXX vẫn phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo từ chối NBC.
+ Sự có mặt của NBH, NĐDS, BĐDS, người có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ. Sự tham gia của các chủ thể trên tại phiên tòa HSST có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá trình tiến hành tố tụng nói chung và phiên tòa HSST nói riêng. Sự có mặt của họ tại phiên tòa giúp cho HĐXX xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp cho họ thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp cũng như thực hiện nghĩa vụ tố tụng của NBH, NĐDS, BĐDS, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, bảo đảm cho quá trình tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa thật sự diễn ra và thật sự bình đẳng với nhau. Qua thực tiễn cho thấy thường thì NBH, NĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ cùng với KSV hợp thành chủ thể của một bên tranh tụng, đó là bên buộc tội có vai trò đối trọng với bên tranh tụng khác, đó là bên bào chữa do các chủ thể là BĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ cùng với bị cáo, NBC hợp thành để tranh tụng tại phiên tòa. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH thì NBC hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại Tòa. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp hoặc người bảo vệ quyền lợi cho họ có mặt tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng như thực hiện nghĩa vụ của người liên quan. Họ đứng ở vị thế trung lập hoặc ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ tố tụng của hai bên tranh tụng tại phiên tòa.
+ Sự có mặt của người làm chứng.
Tại Điều 192 BLTTHS năm 2003 qui định: Sự có mặt của người làm chứng tại phiên tòa có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc xét xử trực tiếp, nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án… theo BLTTHS năm 2003 người làm chứng tham gia phiên tòa chủ yếu là thực hiện nghĩa vụ hơn là thực hiện quyền, họ phải trực tiếp chứ không được ủy quyền cho người khác tham gia phiên tòa.
+ Sự có mặt của người giám định và người phiên dịch.
Điều 193 BLTTHS năm 2003 qui định sự có mặt của người giám định tại phiên tòa nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án liên quan đến giám định. Người giám định phải có nghĩa vụ tham gia phiên tòa khi được Tòa án triệu tập, nếu vắng mặt thì tùy từng trường hợp, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Điều 24, Điều 61 BLTTHS năm 2003 qui định sự có mặt của người phiên dịch tại phiên tòa nhằm giúp cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử của mình, đảm bảo nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong TTHS.
+ Rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa.
VKS thực hiện chức năng buộc tội bằng hình thức công tố. KSV thực hành quyền công tố tại phiên tòa HSST để bảo vệ cáo trạng truy tố của VKS. Nhằm bảo đảm cho việc buộc tội nhân danh Nhà nước được chính xác, khách quan, không oan người vô tội. Điều 195 BLTTHS năm 2003 qui định, KSV có thể rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hay kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa. Nhưng nội dung của qui định này xét ở góc độ về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật thì vẫncó điểm chưa phù hợp, làm cho quá trình tố tụng kéo dài nhưng không giải quyết được bản chất của vấn đề.
+ Giới hạn của việc xét xử.
Điều 196 BLTTHS năm 2003 qui định giới hạn của việc xét xử, nhằm mục đích phân định các chức năng cơ bản trong TTHS. Tòa án là chủ thể của chức năng xét xử, là trọng tài giữa bên buộc tội và bên bào chữa, Tòa án không có chức năng buộc tội nếu Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Tòa án đã Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đồng thời qui định này cũng nhằm đảm bảo cho bị cáo thực hiện đầy đủ quyền bào chữa của bị cáo.
+ Quyết định yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa.
Mục đích của việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung là nhằm khắc phục những thiếu sót trong quá trình điều tra và truy tố. Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX có quyển ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung (qui định tại Điều 199 BLTTHS năm 2003) nhưng căn cứ để HĐXX ra quyết định này không được pháp luật đề cấp đến. Thực tiễn áp dụng chế định này còn nhiều bất cập, việc trả đi, trả lại hồ sơ nhiều lần nhưng kết quả điều tra vẫn không thay đổi.
Như đã trình bày ở trên các chế định: “Rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa; giới hạn của việc xét xử; quyết định yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa”, được qui định trong BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, nội dung của các qui định này vẫn còn một số điểm hạn chế, bất cập chưa phù hợp với lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật. Chúng tôi sẽ phân tích, đề xuất sửa đổi, bổ sung những chế định này vào chương 2 của chuyên đề.
b- Các thủ tục tại phiên tòa HSST.
- Thủ tục bắt đầu phiên tòa HSST.
Thủ tục bắt đầu phiên tòa hay còn gọi là thủ tục khai mạc phiên tòa được qui định từ Điều 201 đến Điều 205 BLTTHS năm 2003; Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 và Nghị quyết số 04/2004/NQ- HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Thủ tục này nhằm mục đích kiểm tra sự có mặt của những người TGTT và tạo điều kiện cần thiết cho phiên tòa ở các thủ tục tiếp theo được tiến hành tốt nhât. Trong thủ tục này, chủ tọa phiên tòa là người điều hành chủ yếu. Nội dung của thủ tục này là xác định những người được triệu tập đến phiên tòa đã đầy đủ hay chưa, kiểm tra căn cước, phổ biến và giải thích quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ tại phiên tòa.
- Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa.
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hay còn gọi là thủ tục thẩm vấn được qui định từ Điều 206 đến Điều 216 BLTTHS năm 2003. Thủ tục này nhằm mục đích xem xét công khai những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra và những tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh vụ án. Đây là thủ tục quan trọng nhất của phiên tòa HSST, mọi vấn đề của vụ án được đưa ra kiểm tra, xem xét công khai. Chủ tọa phiên tòa là người chủ yếu điều khiển việc xét hỏi. Nội dung của thủ tục xét hỏi là làm rõ các tình tiết của vụ án như: Các tình tiết buộc tội, gỡ tội, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng… Nội dung của thủ tục xét hỏi là cơ sở cho thủ tục tranh luận, nghị án và tuyên án sau này.
Xét về bản chất, hoạt động xét hỏi tại phiên tòa HSST cũng giống như hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra, nhưng xét về hiện tượng thì có sự khác biệt. Hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra được tiến hành một cách bán công khai và chủ yếu là thu thập chứng cứ, còn xét hỏi tại phiên tòa là điều tra hoàn toàn công khai với sự chứng kiến của các chủ thể tham gia và tham dự phiên tòa dưới sự điều khiển của HĐXX. Ở giai đoạn điều tra, tính tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa chưa được thể hiện rõ nét. Tại phiên tòa HSST bằng thủ tục xét hỏi công khai và toàn diện, tính tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa được thể hiện triệt để hơn mặc dù chưa được tập trung cao như ở thủ tục tranh luận sau đó. Ngoài việc hỏi và trả lời thì HĐXX và những người tham gia phiên tòa còn có thể xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, công bố các tài liệu… là những hoạt động ngoài hoạt động xét hỏi.
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa HSST có mối quan hệ biện chứng với kết quả điều tra của giai đoạn điều tra. Điều này thể hiện  kết quả điều tra của giai đoạn điều tra quyết định thủ tục xét hỏi tại phiên tòa.Phạm vi xét hỏi của Tòa án bị giới hạn chủ yếu vào phạm vi kết quả của giai đoạn điều tra. Những tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án là đối tượng xem xét, kiểm tra trong thủ tục xét hỏi. Mặc dù những người TGTT đã trình bày lời khai của mình tại cơ quan điều tra nhưng họ vẫn phải có nghĩa vụ tham gia phiên tòa HSST (có thể vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của họ). Sự hiện diện của họ tại phiên tòa là bắt buộc (bị cáo có thể bị áp giải nếu vắng mặt không có lý do chính đáng, nếu bỏ trốn thì bị truy nã, (Điều 50 BLTTHS); NBH có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 BLHS nếu từ chối khai báo không có lý do chính đáng Điều 51 BLTTHS; Người làm chứng có thể bị dẫn giải nếu vắng mặt không có lý do chính đáng và phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 BLHS nếu từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng Điều 55 BLTTHS).
Mặt khác, thủ tục xét tại phiên tòa tác động trở lại kết quả điều tra của giai đoạn điều tra. Kết quả của hoạt động điều tra là tiền đề, nền tảng quan trọng quyết định đối với hoạt động xét hỏi tại phiên tòa, nhưng thủ tục xét hỏi có tính độc lập tương đối, Tòa án và các chủ thể khác không hoàn toàn lệ thuộc vào kết quả của hoạt động điều tra. Tại phiên tòa HSST, Tòa án có thể chấp nhận yêu cầu của các bên tranh tụng trong việc triệu tập thêm người làm chứng, đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét (qui định tại Điều 205 BLTTHS) hoặc quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung (qui định tại Điều 199 BLTTHS). Tòa án có thể quyết định triệu tập thêm những người cần xét hỏi đến phiên tòa kể cả những người chưa được triệu tập lấy lời khai ở giai đoạn điều tra  (qui định tại Điều 183 BLTTHS). Tòa án vẫn có thể quyết định xem xét tại chỗ nếu xét thấy cần thiết (qui định tại Điều 213 BLTTHS). Kết quả đánh giá của cơ quan điều tra, VKS về những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án không có tính chất bắt buộc đối với Tòa án. Chứng cứ mà cơ quan điều tra đưa vào hồ sơ vụ án có thể không được Tòa án chấp nhận vì không hợp pháp hoặc không liên quan đến vụ án hay việc thu thập bị vi phạm tố tụng. Tòa án có quyền đưa ra những đánh giá chứng cứ độc lập với đánh giá chứng cứ của cơ quan điều tra ngay cả khi toàn bộ chứng cứ trong hồ sơ ở tại phiên tòa HSST không có gì mới so với chứng cứ ở giai đoạn điều tra.
- Thủ tục tranh luận tại phiên tòa HSST.
Thủ tục tranh luận tại phiên tòa còn gọi là tranh luận trước Tòa án được qui định từ Điều 217 đến Điều 221 BLTTHS năm 2003. Thủ tục này nhằm mục đích bảo đảm cho VKS và người TGTT tại phiên tòa được phân tích, đánh giá chứng cứ, trình bày kết luận của mình và đề xuất với HĐXX những quan điểm giải quyết vụ án giúp cho HĐXX ra phán quyết chính xác, khách quan, đúng pháp luật. Tại thủ tục này, chủ tọa là người điều khiển chính việc tranh luận.
Như vậy, thủ tục tranh luận là tạo cơ hội để các bên tranh tụng trình bày những đánh giá có tính kết luận của mình về vụ án đã được làm rõ trong thủ tục xét hỏi nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận các đề nghị của mình và bác bỏ những đề nghị của phía bên kia. Thủ tục tranh luận là sự thể hiện đậm nét nhất, tập trung nhất nội dung của nguyên tắc tranh tụng. Có thể khẳng định rằng, không có sự tranh luận bình đẳng giữa bên buộc tội và bào chữa thì không thể nói đến nguyên tắc tranh tụng được. Ngược lại, khi đã thừa nhận nguyên tắc tranh tụng như một nguyên tắc cơ bản của TTHS thì không thể không đề cập đến sự bình đẳng của các bên tranh tụng trong thủ tục tranh luận tại phiên tòa HSST.
- Thủ tục nghị án và tuyên án.
Thủ tục nghị án và tuyên án được qui định từ Điều 222 đến Điều 228 BLTTHS năm 2003; Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 và Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Nghị án là việc HĐXX thảo luận, thông qua bản án bằng cách biểu quyết theo đa số. Khi nghị án, HĐXX phải căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét toàn diện, đầy đủ các chứng cứ, ý kiến của KSV, NBC và những người TGTT khác tại phiên tòa. Biên bản nghị án là hình thức thể hiện việc nghị án của HĐXX. Trên cơ sở Biên bản nghị án, chủ tọa phiên tòa soạn thảo bản án và HĐXX thảo luận, thông qua bản án.
Tuyên án là việc HĐXX đọc toàn văn nội dung của bản án. Sau khi tuyên án, HĐXX có thể giải thích thêm về việc chấp hành Bản án và quyền kháng cáo.
Bản án HSST là văn bản pháp lý quan trọng nhất của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hình thức và nội dung của Bản án HSST được qui định cụ thể tại Điều 224 BLTTHS năm 2003 và mẫu bản án HSST được ban hành kèm theo Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Mặc dù vậy, BLTTHS năm 2003 qui định về hình thức văn bản ở các cấp xét xử còn khác nhau. ở cấp xét xử sơ thẩm thì hình thức văn bàn là “Bản án HSST”: cấp giám đốc thẩm, tái thẩm thì qui định hình thức văn bản là “Quyết định”; Nhưng ở cấp xét xử phúc thẩm, xét về bản chất cũng là cấp kiểm tra,không xử lại vụ án nhưng hình thức văn bản lại qui định là “Bản án hình sự phúc thẩm”.

Chương 2
CÁC BÊN TRANH TỤNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG QUÁ TRÌNH TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HSST.

2.1. Bên buộc tội trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa HSST.
2.1.1. Chức năng buộc tội và các chủ thể của chức năng buộc tội.
* Chức năng buộc tội.
Dưới góc độ ngôn ngữ, buộc tội là “buộc ai vào một tội nào đó, bắt phải nhận tội, chịu tội”(9). Dưới góc độ thuật ngữ pháp lý, buộc tội là “hoạt động của cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền theo qui định của pháp luật truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS qui định là tội phạm”(10). Theo chúng tôi, ở nghĩa chung nhất, buộc tội là hoạt động của các chủ thể có quyền theo luật định nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự mà nội dung của nó là đưa ra lời buộc tội đối với cá nhân cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu của tội phạm được qui định trong BLHS và chủ thể đó phải chứng minh lời buộc tội của mình là đúng. Buộc tội khôngchỉ là hoạt động riêng của KSV mà còn là hoạt động của nhiều chủ thể khác, xảy ra trước phiên tòa hay tại phiên tòa.
Khi bàn về khái niệm chức năng buộc tội, có quan điểm cho rằng “chức năng buộc tội là hoạt động của KSV nhằm xác định tội phạm người phạm tội, buộc kẻ phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo qui định của pháp luật” (11). Theo chúng tôi, quan điểm này không đủ cơ sở thuyết phục về luật thực định cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Bởi lẽ, nó đã phủ nhận hoạt động của các chủ thể khác trong việc thực hiện chức năng buộc tội như: Cơ quan điều tra, NBH (trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH) và đại diện hợp pháp cũng như người bảo về quyền lợi của họ.
Quan điểm được thừa nhận rộng rãi trong khoa học luật TTHS Việt Nam là “chức năng buộc tội còn gọi là chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự là một dạng hoạt động tố tụng nhằm phát hiện kẻ phạm tội chứng minh lỗi của người đó, bảo đảm phán xử và hình phạt đối với người đó” (12). Theo chúng tôi, đây là quan điểm khoa học có sức thuyết phục hơn cả, khái niệm đã hội tụ đầy đủ nội dung, phạm vi cũng như đối tượng của chức năng buộc tội.
Về nội dung, chức năng buộc tội là tổng hợp những hoạt động của các chủ thể bên buộc tội. Đầu tiên là khởi tố bị can, tiếp theo là hoạt động điều tra, truy tố bị can bằng bản Cáo trạng và cuối cùng là chứng minh Cáo trạng đó đúng trước Tòa án. Chúng tôi đồng tình với quan điểm khi chưa buộc tội thành hai phần là buộc tội về nội dung và buộc tội về tố tụng. Buộc tội về nội dung (đối tượng chứng minh) là việc đưa ra những cáo buộc đối với cá nhân cụ thể về tội phạm gì và hành vi của người bị buộc tội có dấu hiệu của tội phạm đó. Buộc tội về tố tụng là tổng hợp tất cả các hành vi tố tụng cụ thể nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để chứng minh sự đúng đắn của buộc tội về nội dung đã đưa ra đối với người bị buộc tội. Buộc tội về nội dung là cơ sở định hướng cho buộc tội về tố tụng và ngược lại, buộc tội về tố tụng giúp cho buộc tội về nội dung có đủ căn cứ pháp lý và thực tiễn.
Về tính chất, chức năng buộc tội có thể được thực hiện dưới các hình thức: Tư tố, Tư công tố và công tố. Tư tố là nói đến quyền của cá nhân truy cứu trách nhiệm người phạm tội và ở Việt Nam, quyền này thuộc về NBH và người đại diện hợp pháp của họ (trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH). Công tố là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội và ở Việt Nam quyền này được Nhà nước giao cho KSV thực hiện. Tư – công tố là hình thức buộc tội có sự kết hợp của hai hình thức nêu trên.
Theo pháp luật Việt Nam, chức năng buộc tội có thể được thực hiện dưới một trong ba hình thức nêu trên hoặc ba hình thức đồng  thời được thực hiện. Chỉ được khởi tố vụ án theo yêu cầu của NBH tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS và khi người đó yêu cầu rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ theo khoản 2 Điều 105 BLTTHS (đây là hình thức buộc tội tư tố). Sau khi khởi tố vụ án theo yêu cầu của NBH, người đó yêu cầu rút yêu cầu nhưng có căn cứ để xác định người đó yêu cầu rút yêu cầu khởi tố vụ án trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu rút yêu cầu nhưng Cơ quan THTT vẫn tiếp tục THTT đối với vụ án theo Điều 105 BLTTHS hoặc khi đã mở phiên tòa thì việc rút yêu cầu khởi tố vụ án của người đã yêu cầu không có ý nghĩa gì đối với việc xét xử vụ án vì lúc này hoạt động công tố của KSV vẫn đang tồn tại (đây là hình thức buộc tội tư – công tố). Còn lại các vụ án được khởi tố, điều tra, truy tố không phụ thuộc vào cá nhân NBH thì đây là buộc tội dưới hình thức công tố.
Về thời điểm bắt đầu và kết thúc của chức năng buộc tội, chức năng buộc tội xuất hiện từ khi có cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can (buộc tội chính thức); “khi có căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can…” (Điều 126 BLTTHS năm 2003). Có một số trường hợp đặc biệt thì chức năng buộc tội xuất hiện sớm hơn khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ người bị tình nghi (buộc tội không chính thức) thuộc trường hợp bắt khẩn cấp, bắt quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã Điều 81; 82; 86 BLTTHS năm 2003). Khi kết thúc thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm thì chức năng buộc tội cũng kết thúc. Có một số trường hợp ngoại lệ thì chức năng buộc tội kết thúc sớm hơn khi những căn cứ của việc buộc tội không còn và dẫn đến hệ quả là cơ quan điều tra đình chỉ điều tra hoặc VKS hay Tòa án đình chỉ vụ án. ở cấp phúc thẩm và các thủ tục đặc biệt giám đốc thẩm, tái thẩm không có chức năng buộc tội, lúc này chỉ có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS, chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên TGTT.
Về vai trò, chức năng buộc tội đóng một vai trò vô cũng quan trong trong sự vận hành của TTHS. Chức năng buộc tội là một trong những chức năng cơ bản của TTHS, nó đối trọng với chức năng bào chữa, là nhân tố làm phát sinh quá trình tranh tụng. Chức năng buộc tội có vai trò, động lực không có buộc tội thì sẽ không có hoạt động tố tụng hoặc hoạt động tố tụng đó sẽ không có định hướng. Chức năng buộc tội làm phát sinh chức năng bào chữa, là cội nguồn của quá trình tranh tụng và là tiền đề cần thiết cho chức năng xét xử.
* Các chủ thể của chức năng buộc tội.
Trên cơ sở khái niệm, nội dung, tính chất cũng như phạm vi của chức năng buộc tội,chúng ta có thể xác định được các chủ thể của chức năng này. Các chủ thể của một chức năng tố tụng nói chung và chức năng buộc tội nói riêng để hợp thành một bên tranh tụng (bên buộc tội) thì đòi hỏi phải thỏa mãn các yêu cầu như: Cùng động cơ, mục đích, cách thức tiến hành và tính chất pháp lý. Theo chúng tôi, chủ thể của chức năng buộc tội gao gồm: Cơ quan điều tra, VKS, NBH, theo đó chức năng buộc tội có tất cả các chủ thể sau: Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra và điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS; và KSV, NBH, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của NBH.
NBH, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ là các chủ thể của chức năng buộc tội. Có nhiều quan điểm cho rằng, NBH và đại diện hợp pháp của họ chỉ là chủ thể của chức năng buộc tội trong các trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH (Điều 105 BLTTHS năm 2003). Quan điểm này cho rằng, Điều 39 BLTTHS năm 1988 và Điều 51 BLTTHS năm 2003 không thể thừa nhận NBH và đại diện hợp pháp của họ là chủ thể của chức năng buộc tội. Vì có vụ án mà họ không thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo hoặc xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên lúc này, họ thực hiện chức năng bào chữa. Theo chúng tôi thì quan điểm này khó thuyết phục cả về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Sự buộc tội của NBH và người đại diện hợp pháp của họ là một tất yếu khách quan trong tất cả các vụ án mà họ tham gia. Bởi lẽ, quyền và lợi ích hợp pháp của NBH đã bị tội phạm xâm hại, hoạt động tố tụng của NBH đại diện hợp pháp của họ có định hướng rõ ràng nhằm truy tố trách nhiệm hình sự người phạm tội và đây là dấu hiệu cơ bản của chức năng buộc tội. Mặt khác, quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại và quyền yêu cầu tuy cứu trách nhiệm hình sự là gắn liền với nhau, bổ sung cho nhau. Để xác định NBH và người đại diện hợp pháp của họ có phải là chủ thể của chức năng buộc tội hay bào chữa là phải dựa vào mục đích tham gia của họ vào TTHS. Họ tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBH bị tội phạm xâm hại, họ bảo về bằng cách hợp tác với cơ quan tố tụng để tìm ra người phạm tội nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự cá nhân cụ thể. Ở nước ta hiện nay, chức năng buộc tội của NBH và người đại diện hợp pháp của họ được thể hiện rõ nét nhất là tại phiên tòa sơ thẩm. Còn ở giai đoạn điều tra, họ thực hiện chức năng này rất mờ nhạt.
1.1.2. Sự tham gia tranh tụng của kiểm sát viên, người bị hại và nguyên đơn dân sự tại phiên tòa HSST.
2.1.2.1. Sự tham gia của kiểm sát viên người bị hại và nguyên đơn dân sự tại thủ tục ban đầu phiên tòa.
Theo qui định của BLTTHS năm 2003 tại các Điều 37, 51, 52, 202 và 205 thì hoạt động của KSV, NBH và NĐDS tại thủ tục này chủ yếu là chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho hoạt động tranh tụng ở các thủ tục tiếp theo. KSV, NBH và NĐDS đề nghị HĐXX thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ cho rằng họ không vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án là không nằm ngoài mục đích bảo đảm cho hoạt động buộc tội của mình tại thủ tục xét hỏi và tranh luận tiếp theo đạt hiệu quả. Vì những người này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động buộc tội của họ tại phiên tòa HSST. KSV, NBH và NĐDS yêu cầu HĐXX triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét thực chất đây là hoạt động buộc tội của họ tại thủ tục này nhưng chưa rõ nét, chưa tập trung cao như ở các thủ tục sau đó. Những người làm chứng, các vật chứng và tài liệu do KSV, NBH và NĐDS yêu cầu triệu tập hoặc yêu cầu đưa thêm có thể bị cáo nói riêng và bên bào chữa nói chung chưa biết được trong giai đoạn điều tra và có thể gây bất lợi cho bên bị buộc tội. KSV, NBH và NĐDS đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa khi có người TGTT vắng mặt và sự vắng mặt này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên buộc tội. Nếu không hoãn phiên tòa thì KSV, NBH và NĐDS sẽ bất lợi trong hoạt động buộc tội cũng như ảnh hưởng đến hiệu quả tranh tụng của họ tại phiên tòa HSST.
Chúng tôi nhận thấy, hoạt động của KSV tại thủ tục bắt đầu phiên tòa là nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhiều hơn là nhằm thực hành quyền công tố. Trong hoạt động thực tiễn, KSV thực hiện quyền đề nghị hoãn phiên tòa do có sự vắng mặt những người TGTT không được thực hiện đúng đắn, KSV thường cho rằng những người TGTT đã có lời khai đầy đủ và rõ ràng trong hồ sơ. KSV chưa hiểu được bản chất của quá trình tranh tụng tại phiên tòa HSST, chưa hiểu được vai trò của những người TGTT là chủ thể của các bên tranh tụng cũng như các tài liệu, chứng cứ cần phải được kiểm tra công khai tại phiên tòa… Hậu quả là đến thủ tục xét hỏi hoặc tranh luận, phiên tòa phải bị hoãn do sự vắng mặt của những người TGTT mà lời khai của những người này cần phải được kiểm tra công khai để làm cơ sở xác định sự thật khách quan của vụ án. Mặt khác, trên thực tế thì KSV rất ít thực hiện quyền yêu cầu HĐXX triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét với nhiều lý do khác nhau. Có thể do họ đã thỏa mãn với lời khai của những người làm chứng hoặc vật chứng và tài liệu đã thu thập được có tại hồ sơ và cũng có thể do KSV nghĩ rằng hoạt động buộc tội của mình đã có sự hỗ trợ từ phía HĐXX nên không cần thiết phải thực hiện.
Trên thực tế thì đa số các yêu cầu của NBH và NĐDS về việc yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, đưa thêm tài liệu và vật chứng ra xem xét, đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa khi có người TGTT vắng mặt ít được HĐXX chấp nhận. Đa số HĐXX nghĩ rằng, chứng cứ có tại hồ sơ đã đầy đủ, những người TGTT vắng mặt nhưng lời khai của họ đã có tại hồ sơ, hoặc NBH, NĐDS luôn có xu hướng buộc tội bị cáo nên đưa ra nhiều yêu cầu không chính đáng. Ngoài ra NBH, NĐDS chưa ý thức được vai trò của mình, chưa thấy được mình là một chủ thể thực hiện chức năng buộc tội nên tại thủ tục này NBH, NĐDS ít quan tâm đến việc thực hiện quyền của mình. Chỉ đến khi TGTT ở thủ tục xét hỏi và tranh luận sau đó, hiệu quả tranh tụng của NBH, NĐDS không đạt được do không chuẩn bị tốt những tiền đề quan trọng tại thủ tục bắt đầu phiên tòa. Mặt khác, HĐXX thường quan niệm rằng, NĐDS tham gia phiên tòa HSST mục đích là để yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại, đã có sự hỗ trợ đắc lực từ phía KSV… nên ý kiến, yêu cầu của NĐDS nhiều khi không được HĐXX tôn trọng. Hậu quả là nhiều bản án sơ thẩm đã bị hủy, sửa do HĐXX không chú ý đến các ý kiến có căn cứ của NBH, NĐDS tại thủ tục này.
Hoạt động tranh tụng của KSV, NBH, NĐDS tại thủ tục bắt đầu phiên tòa là điều kiện cần thiết đảm bảo cho họ hoạt động tranh tụng tiếp theo ở thủ tục xét hỏi và tranh luận. Vai trò của KSV, NBH và NĐDS ở thủ tục này là rất quan trọng. Thông qua hoạt động của mình, ý kiến của họ sẽ gặp phải những quan điểm phản bác của bên bào chữa, KSV, NBH, NĐDS phải đưa ra những căn cứ làm cơ sở cho yêu cầu, đề xuất của mình cũng như phản bác những yêu cầu, đề xuất của bên bào chữa. Sự cọ xát này thực chất là hoạt động tranh tụng ở mức độ thấp của KSV, NBH, NĐDS với các chủ thể của bên bào chữa tại thủ tục bắt đầu phiên tòa HSST.
2.1.2.2. Sự tham gia của kiểm sát viên, người bị hại và nguyên đơn dân sự tại thủ tục xét hỏi.
Theo BLTTHS năm 2003, hoạt động của KSV tại thủ tục xét hỏi là đọc Bản cáo trạng, trình bày ý kiến bổ sung nếu có (Điều 206); công bố những lời khai tại cơ quan điều tra (Điều 208); hỏi bị cáo (Điều 209); hỏi NBH, NĐDS, BĐDS, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ (Điều 210); hỏi người làm chứng (Điều 211); xem xét vật chứng (Điều 212); xem xét tại chỗ (Điều 213); nhận xét về những tài liệu của vụ án và báo cáo của cơ quan, tổ chức và hỏi thêm những vấn đề có liên quan (Điều 214); nhận xét về kết luận giám định và hỏi người giám định (Điều 215). Về trình tự KSV là người hỏi sau HĐXX nhưng trước NBC và người bảo vệ quyền lợi của đương sự (Điều 207).
Để mở rộng tranh tụng tại phiên tòa HSST thì KSV phải đóng vai trò chính, phải chủ động và tích cực trong thủ tục xét hỏi. BLTTHS năm 2003 không có qui định nào buộc KSV phải có trách nhiệm xét hỏi để làm rõ các tình tiết của vụ án mà xét hỏi ai và xét hỏi như thế nào là do KSV tự quyết định. Do đó, KSV tham gia xét hỏi tại phiên tòa rất hạn chế và thụ động. KSV tích cực tham gia xét hỏi thì họ sẽ dễ dàng, thuận lợi trong việc phân tích, đánh giá chứng cứ tại thủ tục tranh luận sau đó. Trong bất kỳ vụ án hình sự nào thì việc xác định có hay không có những sự kiện, tình tiết thực tế, cụ thể thuộc cấu thành tội phạm mà bị cáo bị truy tố luôn là vấn đề cơ bản trong lập trường của các bên tranh tụng. Khi các tình tiết, sự kiện thực tế của vụ án được xác định rõ thì phần đánh giá pháp lý trong thủ tục tranh luận tiếp theo sẽ thuận lợi hơn. Trên thực tế thì đa số KSV còn thụ động khi tham gia xét hỏi hoặc có tính ỷ lại HĐXX. Họ nghĩ rằng công việc xét xử, ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án là công việc của Tòa án, còn quan điểm của KSV đã thể hiện trong bản cáo trạng. KSV thụ động tham gia xét hỏi dễ dẫn đến thụ động trong khi tham gia tranh luận. BLTTHS năm 2003 qui định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT, trong đó có Tòa án (Điều 10). Việc thụ động tham gia xét hỏi của KSV sẽ đẩy HĐXX vào tình thế khó khăn. Tòa án muốn ra bản án hoặc quyết định của mình có căn cứ và hợp pháp thì không còn cách nào khác thì họ phải tích cực tham gia xét hỏi để xác định các tình tiết khách quan của vụ án. Lúc này chức năng xét xử không còn nguyên nghĩa, nguyên tắc tranh tụng bị xâm phạm, sự bình đẳng giữa các bên tranh tụng chỉ là hình thức.
Sự hạn chế của BLTTHS năm 2003 còn thể hiện ở việc qui định KSV hỏi sau HĐXX tại thủ tục xét hỏi. KSV đại diện VKS tham gia phiên tòa HSST là trung tung tâm của hoạt động tranh tụng, là chủ thể khởi động cho hoạt động chứng minh vụ án hình sự tại phiên tòa. KSV muốn khẳng định kết luận của mình là có cơ sở thì phải chứng minh cho HĐXX thấy các sự kiện, tình tiết nêu trong bản cáo trạng là có thật và khách quan; các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án là đúng theo trình tự luật định. Sẽ là khoa học và logíc hơn nếu sau khi đọc bản cáo trạng thì KSV phải tiến hành xét hỏi ngay để bảo vệ cáo trạng, chứng minh cho HĐXX thấy các luận điểm nêu trong cáo trạng là có căn cứ. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc các cơ quan THTT nhưng phải là cơ quan THTT thực hiện chức năng, buộc tội chứ không phải là cơ quan THTT thực hiện chức năng xét xử. KSV đại diện VKS thực hành quyền công tố tại phiên tòa HSST là chủ thể của chức năng buộc tội, khi chủ thể này đưa ra lời buộc tội trong bản cáo trạng thì về nguyên tắc phải xét hỏi trước để chứng minh cho lời buộc tội đó. HĐXX có thể tham gia xét hỏi nhưng HĐXX là chủ thể của  chức năng xét xử, hỏi sau bên buộc tội và bên bào chữa và chỉ hỏi mang tính chất thủ tục. Không thể có tình trạng một chủ thể thực hiện chức năng buộc tội đưa ra lời buộc tội rồi một chủ thể khác thực hiện chức năng xét xử lại chủ động đi chứng minh cho lời buộc tội đó.
Từ những hạn chế của pháp luật thực định nên trong hoạt động  thực tiễn “… còn nhiều phiên tòa KSV không chủ động xét hỏi mà chờ chủ tọa phiên tòa nhắc nhở mới hỏi và cũng chỉ hỏi với tính chất bổ sung còn hỏi để chứng minh tội phạm và làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án vẫn còn do chủ tọa phiên tòa thực hiện…”(13). Hay “… điều các Luật sư băn khoăn trong một số phiên tòa trong thời gian qua, chính là KSV chưa tích cực, chủ động tham gia phần xét hỏi (trong khi đáng lẽ chính VKS là cơ quan truy tố và KSV cần tích cực tham gia để bảo vệ quan điểm buộc tội các bị cáo là đúng đắn) . Điều này có nguyên nhân trong BLTTHS vẫn dựa trên chế độ xét hỏi, với vai trò thẩm vấn chủ yếu tập trung vào chủ tọa và HĐXX, nhưng trong điều kiện mở rộng tranh tụng hiện nay, vai trò của các KSV ngày càng lớn và trách nhiệm rất nặng nề” (14) hoặc “VKS chỉ cần đọc xong bản cáo trạng và trả lời không có ý kiến gì thêm đối với mọi câu hỏi đặt ra là vừa hoàn thành xong nhiệm vụ tố tụng, vừa không phải băn khoăn về trách nhiệm hành chính trước thủ trưởng cơ quan. Một số KSV cho rằng câu trả lời thụ động như trên cũng một phần do HĐXX đã thể hiện quá tích cực vai trò của mình tại phiên tòa, đã đặt ra hết mọi câu hỏi cho bị cáo nên VKS không còn gì để hỏi. Thực ra đó mới chỉ là một phần của câu trả lời. Một phần khác quan trọng hơn là ở chỗ VKS đã quen với vai trò thụ động, không tích cực tham gia vào các diễn biến tại phiên tòa”(15).
Chức năng buộc tội, xuất hiện trước tiên và là tiền đề cần thiết cho chức năng xét xử. Trong mối quan hệ giữa KSV và HĐXX tại phiên tòa HSST thì KSV phải chủ động thực hiện các hoạt động buộc tội bằng cách chủ động xét hỏi để làm rõ các tình tiết của vụ án. Về nguyên tắc, khi tranh tụng trước Tòa, ai đưa ra yêu cầu thì người đó phải chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và đúng pháp luật. Thực tiễn xét xử, nhiều phiên tòa diễn ra với vai trò khá mờ nhạt và thụ động của KSV. Thực trạng này đã biến phiên tòa thành nơi độc diễn của Tòa án, KSV chỉ cần bản cáo trạng, chuẩn bị bản luận tội rồi đọc tại phiên tòa, còn các hoạt động chứng minh bị cáo có lỗi hay không có lỗi thì rất thụ động.
Theo quan điểm của chúng tôi, để thể chế hóa tinh thần tranh tụng dân chủ tại phiên tòa theo Nghị quyết 08 và 49 của Bộ chính trị thì BLTTHS năm 2003 cần phải được sửa đổi, bổ sung theo hướng qui định KSV là người xét hỏi trước bên bào chữa, HĐXX, KSV đóng vai trò chính trong thủ tục xét hỏi và cần qui định nghĩa vụ xét hỏi của KSV tại phiên tòa HSST là hoàn toàn cần thiết.
BLTTHS năm 2003 qui định hoạt động tranh tụng của NBH và NĐDS tại thủ tục này là đưa các tài liệu, đồ vật, đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm cho việc bồi thường (Điều 51 và 52); Đề nghị chủ tọa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ (Điều 207); Trình bày về những tình tiết liên quan đến họ và trả lời những câu hỏi đối với người tham gia xét hỏi (Điều 21); tham gia xem xét các vật chứng (Điều 212) tham gia xem xét tại chỗ (Điều 213); Nhận xét về việc trình bày, những tài liệu báo cáo của cơ quan, tổ chức (Điều 214).
Theo pháp luật thực định, trước khi tiến hành xét hỏi, KSV đọc bản cáo trạng (Điều 207 BLTTHS); Mặc dù nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam là nguyên tắc công tố nhưng khi xử lý người phạm tội, Nhà nước cần quan tâm đến lợi ích chính đáng của NBH. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH thì về nguyên tắc chỉ có NBH mới có quyền đưa một người xét xử tại Tòa án, lúc này quyền công tố có sự hỗ trợ và thể hiện sự nhượng bộ đối với quyền tự do. Trong trưởng hợp này, quyền tư tố xuất hiện trước, làm phát sinh và có tính chất quyết định đối với quyền công tố. Nhằm thể hiện triệt để hơn quyền tư tố của NBH, cụ thể hóa chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của NBH phù hợp với chức năng buộc tội theo tinh thần tranh tụng, nâng cao tính chủ động của họ trong hoạt động buộc tội tại phiên tòa thì BLTTHS cần bổ sung theo hướng qui định NBH hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày lời cáo buộc của mình trước khi VKS đọc bản cáo trạng đối với vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH là cần thiết.
Theo BLTTHS hiện hành, NBH và NĐDS không có quyền đặt trực tiếp câu hỏi đối với bị cáo, những người TGTT khác mà chỉ có quyền đề nghị với chủ tọa hỏi thêm những tình tiết cần làm sáng tỏ. Đề nghị này không biết có được chủ tọa đồng ý hay không và nếu được chấp nhận thì câu hỏi của chủ tọa chưa chắc đã đúng như ý định của NBH và NĐDS muốn hỏi. Trong khi đó pháp luật cho phép người bảo vệ quyền lợi của NBH và NĐDS (tham gia trên cơ sở yêu cầu của NBH, NĐDS và thực hiện các quyền của NBH, NĐDS) thì có quyền hỏi bị cáo và những người TGTT khác. Sự thiếu sót này của pháp luật thực định đã hạn chế khả năng chủ động, tích cực của NBH và NĐDS trong quá trình thực hiện chức năng buộc tội.
Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH thì NBH có quyền trình bày lời buộc tội tại phiên tòa ở thủ tục tranh luận. Hoạt động xét hỏi là nền tảng cho hoạt động tranh luận nhưng pháp luật không cho họ quyền được hỏi là không phù hợp. Những vụ án mà không có người bảo vệ quyền lợi của NBH tham gia thì NBH rất khó khăn trong quá trình thực hiện buộc tội của mình. KSV là chủ thể thực hiện chức năng buộc tội nhân danh Nhà nước tại phiên tòa, hoạt động buộc tội của NBH đã có sự hỗ trợ đắc lực từ phía KSV nhưng không phải lúc nào quan điểm buộc tội của KSV cũng trùng theo quan điểm buộc tội của NBH. Ngoài việc phải làm rõ chứng cứ xác định có tội thì KSV còn làm rõ chứng cứ xác định vô tội đối với bị cáo, đôi khi quan điểm của KSV và NBH còn đối lập nhau. Do vậy, NBH được trực tiếp tham gia xét hỏi tại phiên tòa HSST là hoàn toàn cần thiết cho hoạt động thực tiễn. Pháp luật thực định chưa tạo điều kiện thuận lợi cho NBH tại thủ tục xét hỏi để họ có đủ điều kiện chứng minh lời buộc tội của mình tại thủ tục tranh luận là có căn cứ và đúng pháp luật. Có quan điểm cho rằng, đối với những vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH thì họ có quyền tham gia xét hỏi bị cáo tại phiên tòa. Quan điểm không đồng tình cho rằng, những người TGTT tại phiên tòa chỉ được đề nghị với chủ tọa hỏi thêm chứ không được trực tiếp hỏi, bởi vì “nếu không như vậy thì tính chất của việc xét hỏi tại phiên tòa không còn nữa,  nếu ai  cũng có quyền hỏi thì trật tự tại phiên tòa đảo lộn, chủ thể phiên tòa sẽ không điều khiển được”(16). Theo chúng tôi trong điều kiện mở rộng là nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa  thì quan điểm thứ nhất có nhiều yếu tố hợp lý hơn. Đối với vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH thì sự chủ động, tích cực của họ trong việc thực hiện chức năng buộc tội là hết sức cần thiết, đây là hình thức buộc tội nhân danh cá nhân (tư tố) có trước và có cơ sở cho sự hình thành hình thức buộc tội nhân danh Nhà nước (công tố) còn trật tự phiên tòa đảo lộn hay không, chủ thể có điều khiển được hay không lại là chuyện khác. Dưới góc độ thực tiễn, NBH tham gia xét hỏi tại phiên tòa HSST là rất cần thiết  cho bên buộc tội, bên bào chữa cũng như HĐXX trong việc thực hiện các chức năng của mình. Hoạt động xét hỏi, họ xét hỏi để buộc tội có cơ hội cọ xát với việc xét hỏi để gỡ tội của bên bào chữa và HĐXX có điều kiện nâng tầm của mình lên trong quá trình điều khiển, lãnh đạo hoạt động tranh tụng xét hỏi.
Tại phiên tòa sơ thẩm, NĐDS trong BLTTHS có sự hạn chế hơn NĐDS trong Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự trong vụ án dân sự có quyền hỏi lẫn nhau và hỏi người làm chứng mà không cần có sự đồng ý của HĐXX (Điều 222 Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam). Nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng trước Tòa án qui định cho KSV, bị cáo, NBC, NBH, NĐDS… đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ (Điều 19 BLTTHS) xét hỏi cũng là cách để đưa ra chứng cứ chứng minh tại phiên tòa HSST. Khi mở rộng tranh tụng tại phiên tòa, việc xét hỏi chính được chuyển từ HĐXX cho các bên tranh tụng và khi HĐXX không tham gia xét hỏi hoặc hạn chế tham gia xét hỏi để tập trung thực hiện chức năng xét xử của mình thì NĐDS được tham gia xét hỏi bị cáo và những người TGTT khác là hết sức cần thiết. Pháp luật qui định cho các bên tranh tụng quyền bình đẳng trước Tòa án thì phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho họ, phải cho phép họ thực hiện các hoạt động chứng minh quyền bình đẳng với các chủ thể khác trước Tòa. Cần phải qui định cho họ quyền được trực tiếp tham gia xét hỏi tại phiên tòa HSST để xác định các tình tiết, sự kiện khách quan của vụ án làm dữ liệu cho hoạt động tranh tụng ở thủ tục tranh luận tiếp theo. Tại hội thảo khoa học quốc tế về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS vừa được Viện khoa học kiểm sát tổ chức tại thành phố Hải Phòng, TS. Khuất Văn Nga, Phó viện trưởng VKS nhân dân tối cao khẳng định, một trong những vấn đề cần khẩn trương xây dựng BLTTHS sửa đổi cho những năm sau 2010 là “Bộ luật cần thể hiện sự đổi mới trong quy trình, trình tự xét hỏi nhằm thực sự đảm bảo yêu cầu tranh tụng tại Tòa. Tòa án là nơi xét xử công khai, ở đó các bên tham gia đều phải được quyền lên tiếng nói thể hiện quan điểm của chính mình”(17).
Để nôị dung tranh tụng tại phiên tòa theo Nghị quyết 08 và 49 của Bộ chính trị đi vào cuộc sống và đem lại ý nghĩa thiết thực thì BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng qui định NBH được chủ động xét hỏi bị cáo và những người TGTT khác tại phiên tòa HSST đối với những vụ án khởi tố theo yêu cầu của họ. Sự có mặt của NBH tại phiên tòa này là bắt buộc và trình tự xét hỏi là trước KSV. Những vụ án bình thường khác thì NBH và NĐDS có quyền tham gia xét hỏi. Khi được chủ tọa cho phép và trình tự xét hỏi là KSV, NBH và sau đó là NĐDS.
2.1.2.3. Sự tham gia của KSV, NBH và NĐDS tại thủ tục tranh luận.
Với lập luận để bảo vệ quan điểm trong bản cáo trạng không thể giống hoàn toàn như lập luận của cơ quan điều tra khi họ đề nghị VKS truy tố bị can nêu trong kết luận điều tra. Trên thực tế thì rất ít KSV nhận thấy được điều này nên khi tranh luận, họ chỉ đưa ra các lập luận mà cơ quan điều tra đã nêu trong kết luận điều tra. Bên bào chữa và HĐXX sẽ khó được thuyết phục nếu KSV chỉ đưa ra các lập luận như vậy. Phiên tòa là nơi các bên tranh tụng điều tra công khai, sau phần xét hỏi có thể xuất hiện những tình tiết mới để cơ quan truy tố nêu trong cáo trạng hoặc là cơ sở để KSV rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố.
Theo BLTTHS hiện hành, hoạt động tranh tụng của KSV tại thủ tục này là trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội nhẹ hơn, nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo không có tội (Điều 217); Sau khi bị cáo, NBC và những người TGTT khác trình bày ý kiến về luận tội và đưa ra đề nghị, KSV phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến (Điều 218). Hoạt động của KSV tại thủ tục này chủ yếu là thực hiện chức năng công tố (buộc tội), còn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa là rất mờ nhạt.
Nếu như cáo trạng là sự buộc tội dựa vào các tài liệu, chứng cứ thu thập có tại hồ sơ vụ án trong giai đoạn điều tra thì luận tội là sự buộc tội dựa trên những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra trực tiếp, công khai tại phiên tòa. Luận tội với tư cách là lời buộc tội cuối cùng của Nhà nước do KSV thực hiện tại phiên tòa trước khi HĐXX nghị án. Luận tội có ý nghĩa quan trọng trong việc giới hạn phạm vi tranh tụng  và xét xử. Luận tội có những thay đổi so với cáo trạng thì bên bào chữa căn cứ để  trình bày lời bào chữa, Tòa án căn cứ để xác định giới hạn xét xử.
So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003 đã có sự bổ sung quan trọng như: “Luận tội của KSV phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, NBC, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người TGTT khác tại phiên tòa” tại (Điều 217) đã đề cao trách nhiệm của KSV. KSV phải chủ động, tích cực trong thủ tục xét hỏi, phải lắng nghe ý kiến của các bên tranh tụng để luận tội đảm bảo tính thuyết phục và khách quan. Trước hết là thuyết phục đối với HĐXX những yêu cầu buộc tội bị cáo là có căn cứ, phù hợp với pháp luật. Tiếp theo là thuyết phục đối với bên bào chữa cùng tất cả những người có mặt tại phiên tòa.
Luận tội của KSV phải bao gồm các nội dung sau: Ý nghĩa chính trị xã hội của phiên tòa xét xử vụ án; phân tích và đánh giá chứng cứ đánh giá pháp lý, định tội danh cho hành vi của bị cáo, đánh giá về nhân thân của bị cáo, về các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị mức hình phạt, hướng giải quyết trách nhiệm dân sự, vật chứng… có quan điểm cho rằng: “… KSV trong khi luận tội… không đề nghị mức hình phạt cụ thể cũng như mức bồi thường … tránh được sự hiểu không đúng về các cơ quan THTT” (18). Chúng tôi không đồng tình với quan điểm này. Bởi lẽ, KSV không đề nghị mức hình phạt cụ thể thì bên bào chữa không biết được việc buộc tội bị cáo là nặng hay nhẹ để tranh luận và hệ quả là mức hình phạt của bị cáo không được các bên tranh tụng với nhau, mục đích tranh tụng không đạt được và HĐXX rất khó khăn về việc đưa ra phán quyết của mình. Việc đề nghị mức hình phạt cụ thể còn có ý nghĩa thực tiễn khi phân hóa trách nhiệm hình sự cũng như cá thể hòa hình phạt đối với từng bị cáo trong vụ án có đồng phạm. Do vậy, để mức hình phạt là nghĩa vụ pháp lý của KSV  khi luận tội, nhiệm vụ của KSV là xác định, chứng minh những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự theo Điều 63 BLTTHS để làm căn cứ quyết định hình phạt theo Điều 45 BLHS. Tội phạm và hình phạt là hai mặt của một vấn đề, ở góc độ lý luận, khi KSV đưa ra yêu cầu buộc tội về một tội cụ thể thì không thể tách rời yêu cầu về hình phạt và mức hình phạt cụ thể, buộc tội luôn có hai nội dung là tội gì và hình phạt như thế nào tham khảo pháp luật TTHS của một quốc gia trên thế giới như Liên Bang Nga, Thụy Điển, Công hòa Pháp… đều qui định rõ nghĩa vụ đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo của công tố viên buộc tội tại phiên tòa.
Đối đáp của KSV là việc KSV đối lại, đáp lại những ý kiến đang tranh luận với mình. Đây có thể coi là đỉnh điểm của hoạt động buộc tội của KSV là sự thể hiện tập trung nhất trong hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa HSST.
Điều 218 BLTTHS hiện hành đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu tranh tụng tại phiên tòa. Chủ tọa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện để họ trình bày hết ý kiến, KSV phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến, người tham gia tranh luận có quyền đáp lại những ý kiến của người khác, chủ tọa có quyền đề nghị KSV phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của NBC và những người TGTT khác mà những ý kiến đó chưa được KSV tranh luận. BLTTHS năm 1988 qui định đối đáp là quyền của KSV, đến BLTTHS năm 2003 thì đối đáp là quyền đồng thời là nghĩa vụ của KSV.
Trong hoạt động thực tiễn, do trình độ, năng lực của KSV hoặc do KSV không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chưa tập trung chú ý theo dõi diễn biến phiên tòa, thụ động tham gia xét hỏi nên hoạt động tranh luận còn nhiều hạn chế. Một số KSV có tâm lý ngại tranh luận hoặc tranh luận qua loa, chưa đưa ra đầy đủ những luận điểm phản bác ý kiến của NBC và những người TGTT khác để thuyết phục HĐXX. Trên thực tế, “có vụ án, khi Luật sư nêu lý do phản bác luận tội nhưng KSV không phát biểu tranh luận, khi chủ tọa phiên tòa yêu cầu tranh luận thì KSV phát biểu là cáo trạng đã nêu hết rồi. Hoặc có trường hợp trong vụ án bị cáo dùng dao đâm chết người, vết đâm ở ngực xuyên từ phải sang trái và nên làm thủng tim, nạn nhân chết. KSV kết luận là bị cáo dùng tay trái đâm nhưng Luật sư nêu bị cáo thuận tay phải, lúc đó KSV đã không trả lời được. Hay trong vụ án giết người bằng việc đốt nhà làm cho nạn nhân chết. Khi Luật sư đưa ra các chứng cứ để chứng minh bị cáo không thể thực hiện việc đốt nhà thì KSV dùng phương pháp loại trừ: Trong nhà chỉ có 2 người, không chứng minh được ai là người đốt nhà thì chỉ có bị cáo đốt…”(19). Trong phần đối đáp, KSV thường trả lời là giữ nguyên quan điểm như luận tội. Trong khi quan điểm luận tội là chưa được bên bào chữa và những chủ thể khác tranh luận, chưa được cọ xát với quan điểm trái ngược, chưa được tranh tụng. Thực trạng này đã làm cho quá trình tranh tụng trở thành hình thức rất khó cho HĐXX khi thực hiện chức năng của mình.
Theo dõi một số phiên tòa gần đây, báo chí đã phản ảnh vẫn còn sự hạn chế, thụ động của KSV tại thủ tục tranh luận. Thí dụ như vi phạm đất đai của  thị xã Đồ Sơn do Tòa án nhân dân của thành phố Hải Phòng xét xử thì Tiếc rằng, các công tố viên chưa đưa ra được những luận chứng để thuyết phục để phản bác quan điểm của phía Luật sư. Trong quá trình tranh tụng nhiều lần công tố viên từ chối tranh luận…”. Vụ các trọng tài bóng đá tiêu cực do Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử, các Luật sư cho rằng… “đại diện KSV chưa tranh luận tới cùng với các Luật sư những quan điểm và cụ thể từng câu hỏi nêu ra…” và “KSV im lặng có nghĩa là đồng ý, có nghĩa là chưa có những chứng cứ về mặt pháp lý để khẳng định các bị cáo phạm tội…” vụ tiêu cực xảy ra tại MPU 18 do Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử, khi đáp lại ý kiến các Luật sư, KSV trả lời: “đã vậy thì cần mở phiên tòa hôm nay để làm gì?” một bị cáo đã phản ứng “KSV không nói gì sao gọi là trả lời”. Khi nhận xét về phiên tòa xử vụ PMU 18, ông Đặng Quang Phương, Phó Chánh án thường trực Tòa án nhân dân tối cao đã phát biểu: Công tố viên không nên từ chối và cũng không nên trả lời gọn lỏn là giữ nguyên như cáo trạng. Chí ít anh cũng phải dẫn ra được những lập luận trong cáo trạng để trả lời vấn đề Luật sư đã đặt ra”(20). Có trường hợp KSV dựa vào kết quả họp trù bị liên ngành giữa cơ quan điều tra, Tòa án, VKS và lấy kết quả đó làm căn cứ buộc tội theo dạng “hợp thức hóa” hoặc “án bỏ túi” như một KSV đã từng phát biểu “trong cuộc họp liên ngành giữa Công an, Tòa án và VKS, lãnh đạo 3 ngành đều thống nhất bị cáo P có tội, đề nghị HĐXX lưu ý…”.
Sự khác biệt về đánh giá chứng cứ giữa các bên tranh tụng là điều hoàn toàn bình thường. Tuy nhiên những vấn đề mà KSV đã đối đáp hoặc xét thấy không cần thiết phải đối đáp thì cũng phải nêu lý do tránh trường hợp không nói rõ lý do chỉ làm tăng thêm sự hoài nghi về tính thuyết phục của luận tội và dễ hiều lầm khi “im lặng là đồng ý”. Mặt khác, đối đáp khi không cần thiết cũng không làm tăng thêm tính thuyết phục của luận tội mà đôi khi trở thành dài dòng vô ích…
Chúng tôi nhận thấy, KSV tham gia phiên tòa HSST chủ yếu là thực hiện chức năng công tố (chức năng buộc tội) còn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là rất mờ nhạt. Theo quan điểm của chúng tôi, cần sửa đổi BLTTHS theo hướng VKS chỉ thực hiện chức năng công tố tại phiên tòa HSST và nên giao chức năng giám sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa cho HĐXX là hoàn toàn phù hợp. Bởi lẽ, trong hoạt động thực tiễn khi tham gia phiên tòa HSST, KSV thường chỉ quan tâm đến việc bảo vệ cáo trạng, bảo vệ quan điểm buộc tội của VKS, còn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp rất ít được KSV chú trọng. Nghị quyết 08 của Bộ chính trị đã định hướng:  …“Nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với Luật sư, NBC và những người TGTT khác…”. Trong điều kiện mở rộng hoạt động thì KSV không thể thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa HSST được. Nếu chú trọng đến chức năng này thì KSV sẽ không có điều kiện tham gia xét hỏi, tranh luận và kết quả là hoạt động buộc tội sẽ không đạt hiệu quả. Việc bỏ chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa HSST của KSV cũng hoàn toàn phù hợp với định hướng của cải cách tư pháp theo định hướng cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49 của Bộ chính trị là: “… nghiên cứu việc chuyển VKS thành Viện công tố…”. Tuy nhiên vấn đề này không phải đơn giản mà nó liên quan đến mô hình tổ chức VKS và Viện công tố, một vấn đề thời sự đang được giới khoa học luật cũng như những người làm công tác thực tiễn ở Việt Nam rất quan tâm. Chúng tôi đồng tình với ý kiến của TS. Nguyễn Thái Phúc rằng:… “Mô hình Viện công tố thực chất đề cao vai trò của Tòa án, đề cao vai trò nguyên tắc tranh tụng trước Tòa án giữa các bên hoàn toàn bình đẳng với nhau (bên buộc tội và bên bào chữa). Đây là mặt tích cực của mô hình này. Nhưng để công bằng, cần phải xét đến những hạn chế của nó. Hạn chế lớn nhất khi sử dụng mô hình này là trong Nhà nước xã hội không có 1 cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật bằng hoạt động giám sát việc tuân thủ pháp luật trong những lĩnh vực khác nhau trong phạm vi cả nước….”(21).
Căn cứ vào BLTTHS năm 2003 thì hoạt động tranh tụng của NBH và NĐDS tại thủ tục này là đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường, trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình (Điều 51, 52 và 217); Trình bày ý kiến về luận tội của KSV và đưa ra đề nghị của mình, đáp lại ý kiến của người khác (Điều 218). NBH còn có quyền trình bày lời buộc tội trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH (Điều 51 BLTTHS).
Pháp luật thực định không cụ thể hóa việc trình bày lời buộc tội trong vụ án được khởi tố theo yêu cầu của họ như thế nào. Tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 02/10/2004 hướng dẫn: “NBH hoặc đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa được thực hiện theo trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa qui định tại Điều 217 của BLTTHS”(22). Việc hướng dẫn này là không khoa học, logic và không thể hiện được bản chất của chức năng buộc tội cũng như bản chất của quá trình tranh tụng. Bởi lẽ, trình tự phát biểu sau khi tranh luận là bị cáo, NBC trình bày lời bào chữa trước NBH. Về lý luận và thực tiễn, chức năng buộc tội có trước và là tiền đề cho chức năng bào chữa xuất hiện, quá trình tranh tụng xảy ra khi chức năng buộc tội có sự đối trọng của chức năng bào chữa, bên bào chữa muốn bào chữa thì phải biết được bên buộc tội đã buộc tội như thế nào. Hướng dẫn của Nghị quyết đã đánh động NBH trong các vụ án này cũng giống như NBH trong các vụ án bình thường khác. Chúng tôi thiết nghĩ, BLTTHS cần bổ sung theo hướng qui định về trình tự phát biểu khi tranh luận trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH thì NBH được quyền trình bày, lời buộc tội của mình trước khi KSV luận tội là hoàn toàn phù hợp với lý luận và thực tiễn.
Thực tiễn xét xử thấy rằng, vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH thì HĐXX thường không phân biệt với những vụ án bình thường khác. KSV cũng bao biện làm hết các việc buộc tội, còn NBH tham gia với vai trò rất thụ động. Theo Điều 105 BLTTHS: …“trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa HSST thì vụ án phải được đình chỉ…”. Tại sao qui định này không được áp dụng tại phiên tòa HSST? Bản chất NBH rút yêu cầu tại phiên tòa cũng giống như trước phiên tòa nhưng rút tại phiên tòa là khách quan hơn. Qua xét hỏi, tranh luận công khai, NBH có cơ hội thực hiện quyền của mình dân chủ và toàn diện hơn, lúc này họ không bị ép buộc, cưỡng bức hay vì một áp lực nào khác, không thể tước đoạt mất quyền của NBH vì một lý do duy nhất là thời gian chứ không dựa trên cơ sở lý luận lấy thực tiễn nào. Ở góc độ nhân đạo, sự thỏa thuận giữa NBH và bị cáo trong một số trường hợp là cần thiết. Chú ý rằng, nguyên tắc tranh tụng có nội dung rất quan trọng là sự mặc cả thú tội giữa bên buộc tội và bào chữa. BLTTHS Việt Nam chưa qui định vấn đề này. Để cải cách tư pháp theo tinh thần tranh tụng thì đối với những vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH, BLTTHS cần bổ sung theo hướng qui định thủ tục tranh tụng riêng cho NBH tại phiên tòa và HĐXX phải đình chỉ vụ án khi NBH rút yêu cầu khởi tố trước khi nghị án tại phiên tòa HSST là hoàn toàn phù hợp với lý luận và thực tiễn.
Cũng như NBH, pháp luật qui định NĐDS được tham gia phát biểu khi tranh luận sau NBC và bị cáo là không phù hợp với sự vận hành các chức năng cơ bản của TTHS tại phiên tòa sơ thẩm và nguyên tắc tranh tụng. Chức năng buộc tội làm xuất hiện chức năng bào chữa, nội dung và phạm vi của chức năng buộc tội chi phối và quyết định nội dung và phạm vi của chức năng bào chữa. NĐDS chủ thể của chức năng buộc tội. Về nguyên tắc thì bên buộc tội phải phát biểu quan điểm tranh luận trước bên bào chữa và trên cơ sở đó, bên bào chữa mới biết được bên buộc tội đã buộc tội mình như thế nào và đưa ra lời bào chữa của mình mới phù hợp với quy luật khách quan. Mặc dù KSV đã phát biểu quan điểm luận tội nhưng NBH và NĐDS là chủ thể của chức năng buộc tội, cũng sẽ phát biểu quan điểm liên quan đến việc buộc tội, sau đó bên bào chữa phát biểu lời bào chữa sẽ logíc hơn. Sự thiết kế trình tự phát biểu khi tranh luận tại Điều 217 BLTTHS năm 2003 là không theo một cơ số lý luận hay thực tiễn nào. Sẽ hợp lý hơn nếu trình tự phát biểu khi tranh luận trước tiên là KSV rồi đến NBH, NĐDS và sau đó là bên bào chữa phát biểu để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình.
Thực tiễn xét xử còn cho thấy, NĐDS tham gia tranh tụng ở thủ tục tranh luận tại phiên tòa HSST không được tranh luận về phần hình phạt của bị cáo. Do các nhà làm luật Việt Nam chưa thấy được NĐDS là  chủ thể của bên buộc tội, tham gia tại phiên tòa HSST để thực hiện chức năng  buộc tội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. NĐDS có thể đồng thời là NBH và trong trường hợp này họ có các quyền của NBH cũng như quyền của NĐDS, ngoài ra “xét về tính chất thì NĐDS với NBH không khác nhau là mấy nhất là đối với NĐDS là cá nhân”(23). NĐDS không được tham gia tranh luận về phần hình phạt là vì pháp luật chỉ qui định cho họ có quyền đề nghị mức bồi thường và các biện pháp đảm bảo bồi thường, không có quyền kháng cáo về phần hình phạt đối với bị cáo, “thiệt hại của họ. Vì vậy, NĐDS chỉ có quyền kháng cáo về phần bồi thường mà không có quyền kháng cáo về phần hình phạt”(24). Hay đối với các vụ án xâm phạm tài sản của Nhà nước, chủ thể bị thiệt hại là Nhà nước mà VKS là người thay mặt Nhà nước thực hành quyền công tố tại phiên tòa HSST và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, nếu thấy hình phạt của bị cáo chưa thoả đáng thì kháng nghị bản án theo luật định. Theo chúng tôi việc không thừa nhận NĐDS là chủ thể của bên buộc tội và không qui định cho họ quyền tranh luận về phần hình phạt của bị cáo là một hạn chế của pháp luật thực định. Trong khi đó BLTTHS qui định cho KSV, bị cáo, NBC, NBH, NĐDS… có quyền bình đẳng trong việc tranh luận dân chủ trước Tòa án. NĐDS là chủ thể của các chức năng buộc tội, họ bị tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại thì họ phải được tranh luận những vấn đề liên quan đến việc buộc tội bị cáo và tranh luận về hình phạt của bị cáo mới phù hợp. Kể cả khi NĐDS là cơ quan Nhà nước thì chưa chắc mọi trường hợp, KSV thay mặt NĐDS đều thực hiện tốt chức năng buộc tội và kiểm sát hoạt động tư pháp của mình. Trên thực tế, không phải lúc nào quan điểm của KSV và NĐDS cũng thống nhất với nhau. Có nhiều trường hợp do trình độ năng lực của KSV hạn chế hoặc do quá trình giải quyết vụ án có phát sinh tiêu cực…. Nên quan điểm tranh luận của KSV không có căn cứ, không thuyết phục HĐXX có thể đề nghị sai tội danh, đề nghị áp dụng hình phạt cũng như mức hình phạt không phù hợp… thì NĐDS phải làm gì trong các trường hợp này? chiếu theo pháp luật thì họ không có quyền kháng cáo về phần hình phạt do vậy quyền bình đẳng của NĐDS đã bị xâm phạm ngay tại Tòa án. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại và trách nhiệm hình sự có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ này thì trách nhiệm hình sự có trước làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Không có trách nhiệm hình sự thì trách nhiệm trong việc bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự cũng không đặt ra. Nhận thức mới trong khoa học pháp lý TTHS Việt Nam theo hướng cần “thừa nhận tổ chức và pháp nhân là NBH nhằm góp phần đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của NBH” thì việc công nhận NĐDS là chủ thể của bên buộc tội là hết sức cần thiết.
Nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết 08 và 09 của Bộ chính trị thì BLTTHS cần sửa đổi, bổ sung theo hướng qui định NĐDS có quyền tranh luận cả phần hình phạt cũng như bồi thường thiệt hại và trình tự phát biểu khi tham gia tranh luận là sau KSV và NBH nhưng trước các chủ thể bên bào chữa là hoàn toàn phù hợp với lý luận và thực tiễn.
2.2. Bên bào chữa trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
2.2.1. Chức năng bào chữa và các chủ thể của chức năng bào chữa.
2.2.1.1. Chức năng bào chữa.
Dưới góc độ ngôn ngữ, bào chữa là “dùng nhiều lý lẽ, chứng cứ để bênh vực cho hành vi của ai đó đang bị xem là phạm pháp hoặc đang bị lên án”. Dưới góc độ thuật ngữ pháp lý, bào chữa là “việc dùng lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo”. Theo chúng tôi, ở nghĩa chung nhất, bào chữa là hoạt động của các chủ thể có quyền theo luật định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội bằng cách dùng lý lẽ, chứng cứ để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như những gì có lợi cho người bị buộc tội, bào chữa chỉ diễn ra trong lĩnh vực TTHS, nơi nào có buộc tội thì nơi đó có bào chữa, người bị buộc tội không những là bị can, bị cáo mà còn là người bị tình nghi.
Trong khoa học luật TTHS có nhiều quan điểm khác nhau về chức năng bào chữa như: “…Chức năng bào chữa là khả năng mà pháp luật dành cho bị can, bị cáo được đưa ra chứng cứ, lý lẽ được đặt câu hỏi, được tranh luận trong giai đoạn điều tra và xét xử. Bị can, bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa…”(25). Hay “chức năng bào chữa là hoạt động của NBC nhằm xác định những tình tiết minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo…”(26). Các quan điểm trên chưa đầy đủ, chưa thấy được người bị tình nghi là đối tượng bị buộc tội và có chức năng bào chữa, hoặc chủ thể của chức năng bào chữa không chỉ có NBC mà còn là người bị tình nghi, bị can, bị cáo; hay việc xác định các tình tiết liên quan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo không chỉ là mục đích của NBC mà còn là nhiệm vụ của các cơ quan và người THTT trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng “ở chức năng bào chữa là một dạng hoạt động tranh tụng được pháp luật đảm bảo cho người bị buộc tội khả năng bằng cách tự mình hoặc nhờ người khác đưa ra các chứng cứ và lập luận nhằm không chỉ bác bỏ sự buộc tội, làm giảm trách nhiệm cho mình mà còn đưa ra những gì có lợi cho người bị buộc tội trong quá trình tranh tụng”. Khái niệm đã khái quát lên được chủ thể cách thức thực hiện phạm vi cũng như nội dung của chức năng bào chữa.
Về nội dung, chức năng bào chữa là tất cả các hoạt động của người bị buộc tội và NBC từ khi bị buộc tội đến khi kết thúc việc bị buộc tội bằng các hành vi cụ thể, họ sử dụng các quyền theo qui định của pháp luật để làm sáng tỏ những tình tiết về sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như những tình tiết khác có lợi cho người bị buộc tội. Không có nội dung của chức năng buộc tội thì không có nội dung của chức năng bào chữa. Nội dung của chức năng bào chữa bị giới hạn trong phạm vi nội dung của chức năng buộc tội và phụ thuộc vào nội dung của chức năng buộc tội.
Về tính chất chức năng bào chữa chỉ được thực hiện dưới hình thức cá nhân, nhân danh và bảo vệ lợi ích cá nhân người bị buộc tội. Chức năng bào chữa xuất hiện trên cơ sở chức năng buộc tội nó luôn đối trọng và phủ định chức năng buộc tội. Chức năng bào chữa tồn tại trong sự vận động đấu tranh với chức năng buộc tội và đây thực chất là quá trình tranh tụng trong TTHS.
Về thời điểm bắt đầu và kết thúc của chức năng bào chữa, chúng tôi đã có dịp đề cập trong phần trước của chuyên đề. Theo đó, chức năng bào chữa xuất hiện từ khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can. Trong một số trường hợp đặc biệt thì chức năng bào chữa xuất hiện sớm hơn khi người bị tình nghi bị tạm giữ với căn cứ: Người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa (Điều 48 BLTTHS năm 2003) khi kết thúc thủ tục tranh luận tại phiên tòa HSST thì chức năng bào chữa kết thúc sớm hơn khi những căn cứ của việc buộc tội không còn thuộc các trường hợp cơ quan điều tra đình chỉ hoặc VKS hay Tòa án đình chỉ vụ án. Ở cấp phúc thẩm và các thủ tục đặc biệt giám đốc thẩm, tái thẩm không có chức năng bào chữa mà chỉ có chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bào chữa.
Về vai trò, chức năng bào chữa đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự vận hành của TTHS. Nó là một trong những chức năng cơ bản của TTHS, có vai trò đối trọng với chức năng buộc tội vì sự đối trọng này đảm bảo cho TTHS được dân chủ, khách quan chức năng bào chữa cùng với chức năng buộc tội tạo ra quá trình tranh tụng, là tiền đề cần thiết cho chức năng xét xử của Tòa án và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ sự thật và pháp chế. Chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng “Buộc tội mà không có bào chữa sẽ làm cho việc giải quyết vụ án hình sự thành một chiều mang tính chất buộc tội và không phù hợp với tính dân chủ của TTHS…”.
2.2.1.2. Các chủ thể của chức năng bào chữa.
Cũng giống với chủ thể của chức năng buộc tội, các chủ thể của chức năng bào chữa hợp thành một bên tranh tụng (bên bào chữa) phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu như: Cùng động cơ, mục đích, cách thức tiến hành và tính chất pháp lý. Theo chúng tôi, các chủ thể của chức năng bào chữa bao gồm: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, NBC, BĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ.
Theo BLTTHS năm 2003, NBC bao gồm: Luật sư, người dại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân (Điều 56) Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề theo Luật luật sư năm 2006. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể là bố, mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, anh chị em ruột và người giám hộ theo qui định của pháp luật đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Bào chữa viên nhân dân là những người được các tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
BĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ chưa được thừa nhận rộng rãi là chủ thể của chức năng bào chữa. Bởi lẽ, BĐDS là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật qui định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra (Điều 53 BLTTHS năm 2003) quyền và nghĩa vụ của họ chỉ liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Không có quyền đề nghị cũng như kháng cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên họ không thể là chủ thể của chức năng bào chữa. Theo chúng tôi quan điểm này không thuyết phục cả lý luận cũng như thực tiễn khi đã thừa nhận NĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ là các chủ thể của chức năng buộc tội thì sự thừa nhận BĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ là các chủ thể của chức năng bào chữa là hoàn toàn phù hợp, BĐDS không phải là người gây ra thiệt hại cho NĐDS hoặc NBH nhưng họ phải có trách nhiệm bồi thường thay cho người bị buộc tội. Ví dụ: Cha mẹ của bị cáo là người chưa thành niên phải bồi thường thiệt hại do bị cáo gây ra; pháp nhân hoặc cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội phải bồi thường thiệt hại do nhân viên hoặc cán bộ của mình gây ra trong trường hợp thực hiện nhiệm vụ của pháp nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội đó… Khó có thể nói trong các trường hợp này, họ không thực hiện chức năng bào chữa. Có điều chức năng bào chữa và chức năng bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp được họ thực hiện đồng thời mà chúng ta không nhận ra. Trong những trường hợp BĐDS đồng thời là người bị buộc tội thì họ thực hiện cả quyền của BĐDS và quyền của người bị buộc tội theo pháp luật. BĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ TGTT có định hướng rõ ràng là nhằm bác bỏ sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người buộc tội và nhằm đạt được những gì có lợi cho người bị buộc tội để họ không bồi thường hoặc bồi thường thiệt hại ít hơn thiệt hại mà NBH hoặc NĐDS yêu cầu. Họ chứng minh những gì họ không chấp nhận theo yêu cầu của bên buộc tội (chứng minh là quyền chứ không phải là nghĩa vụ của họ). Do pháp luật thực định Việt Nam không cho họ quyền bào chữa nên họ chỉ thực hiện quyền liên quan đến bồi thường thiệt hại. Về nguyên tắc, vấn đề dân sự được giải quyết trong cùng vụ án hình sự, việc chứng minh của họ đã có sự hỗ trợ từ phía hoạt động của Nhà nước (cơ quan điều tra và VKS). Không vì thế mà họ từ bỏ, không chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc chứng minh này không khác với việc chứng minh của người bị buộc tội và NBC. Đầu tiên, họ chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội. Tiếp theo, họ chứng minh là không có thiệt hại do tội phạm gây ra hoặc thiệt hại chỉ xảy ra ít hơn thiệt hại mà bên buộc tội đưa ra để làm căn cứ cho sự phản bác của mình có cơ sở. Nếu họ chứng minh được không có tội phạm và người phạm tội thì đồng nghĩa với việc họ không phải bồi thường thiệt hại, hoặc chứng minh dẫn đến giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội thì đồng nghĩa việc bồi thường thiệt hại của họ sẽ giảm theo. Như vậy, họ đã gián tiếp thực hiện chức năng bào chữa nên họ là chủ thể của chức năng bào chữa là hoàn toàn có căn cứ.
2.2.2. Sự tham gia tranh tụng của bị cáo, người bào chữa và bị đơn dân sự tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Bị cáo là chủ thể của một bên tranh tụng (bên bào chữa), bị buộc tội trực tiếp, họ có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội (Điều 10 BLTTHS). Bị cáo tham gia phiên tòa HSST để bào chữa cho sự vô tội giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình, đồng thời là nguồn chứng cứ quan trọng về vụ án. Chỉ có bị cáo, người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội mới hiểu đầy đủ, rõ ràng về các tình tiết của vụ án nên hơn ai hết, chính họ mới thực hiện quyền bào chữa một cách khách quan và toàn diện nhất trước sự buộc tội. Do đó sự tham gia của bị cáo tại phiên tòa HSST là bắt buộc, đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của họ.
NBC tham gia phiên tòa HSST là chủ thể của một bên tranh tụng.
- Bên bị buộc tội để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo.
- Người bị buộc tội: NBC tham gia phiên tòa HSST theo hai hình thức do bị cáo hay gia đình bị cáo mời hoặc theo yêu cầu của Tòa án trong trường hợp bắt buộc phải có NBC.
Trong những năm qua, NBC là Luật sư có một vai trò quan trọng trong qúa trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và xét xử tại phiên tòa HSST nói riêng. Sự tham gia của NBC không chỉ đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo mà còn góp phần đảm bảo pháp chế, giảm tình trạng oan, sai trong TTHS. Đội ngũ Luật sư nhìn chung còn hạn chế nhiều mặt, còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. ở Việt Nam bình quân 22.000 người dân mới có một Luật sư. Với số lượng Luật sư khiêm tốn như hiện nay nên gần 60% vụ án hình sự chưa có luật sư tham gia bào chữa. Nếu không có chính sách đào tạo tăng số lượng Luật sư thì rất khó thực hiện được ý tưởng 100% phiên tòa HSST có sự tham gia của Luật sư, mà nếu phiên tòa không có Luật sư thì chúng ta không thể thực hiện việc tranh tụng bình đẳng trước Tòa như tinh thần Nghị quyết về cải cách tư pháp. Trong hoạt động thực tiễn, có nhiều trường hợp những luật sư thay vì công việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị bài bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa lại đi gặp gỡ người này người khác để “chạy án”; không ít những vụ án phải trả hồ sơ nhiều lần để điều tra bổ sung hoặc điều tra lại theo kiến nghị vô lý của Luật sư mặc dù sau đó hồ sơ cũng không được bổ sung tình tiết nào mới. Nhiều Luật vi phạm đạo đức nghề nghiệp, đặt mục đích kinh tế lên trên hết, làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm…”. Với thực trạng trên cần phải có giải pháp xây dựng đội ngũ Luật sư lớn mạnh góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp.
BĐDS là chủ thể của một bên tranh tụng, bên bào chữa, tham gia phiên tòa sơ thẩm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Liên quan đến BĐDS có người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ. Những người này cũng tham gia thực hiện chức năng bào chữa. Trong chuyên đề này, chúng tôi chỉ đề cập đến sự tham gia của BĐDS trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa HSST. Không có qui định nào của pháp luật thể hiện BĐDS là chủ thể của chức năng buộc tội. Sự tham gia của BĐDS trong nhiều trường hợp có ý nghĩa quyết định đối với việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Hoạt động của BĐDS nói chung và lời khai của họ nói riêng có ý nghĩa nhất định đến việc xác định hành vi phạm tội của bị cáo. Trong nhiều trường hợp, phán quyết của Tòa án hoàn toàn dựa vào kết quả tranh tụng của BĐDS và NĐDS nói riêng cũng như BĐDS với bên buộc tội nói chung. Để cải cách tư pháp theo tinh thần tranh tụng thì BLTTHS cần bổ sung theo hướng qui định BĐDS là chủ thể của chức năng bào chữa, họ được bình đẳng với các chủ thể bên buộc tội.
2.2.2.1. Sự tham gia của bị cáo, người bị hại và bị đơn dân sự tại thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Theo BLTTHS năm 2003 tại các Điều 50; 53; 58; 202 và 205 thì hoạt động của bị cáo, NBC  và BĐDS tại thủ tục này chủ yếu là chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho hoạt động tranh tụng ở các thủ tục tiếp theo.
Bị cáo, NBC và BĐDS đề nghị HĐXX thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, KSV, Thư ký, người giám định, người phiên dịch khi có căn cứ cho rằng họ không vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án. Hoạt động này của họ nhằm mục đích chuẩn bị những điều kiện, tiền đề cần thiết cho hoạt động bào chữa ở thủ tục xét hỏi và tranh luận tiếp theo được khách quan. Bị cáo, NBC và BĐDS yêu cầu HĐXX triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét thực chất là hoạt động bào chữa của họ ở mức độ thấp. Những người làm chứng, vật chứng, tài liệu do bị cáo, NBC và BĐDS yêu cầu triệu tập hoặc đưa thêm có thể bên buộc tội chưa biết được trong giai đoạn điều tra và có thể gây bất lợi cho bên buộc tội. Đây là phương tiện bào chữa quan trọng, hiệu quả của bên bào chữa ở giai đoạn trước khi xét hỏi. Bị cáo, NBC và BĐDS yêu cầu HĐXX hoãn phiên tòa vì có người TGTT vắng mặt khi có căn cứ cho rằng sự vắng mặt của những người đó ảnh hưởng đến hoạt động tranh tụng của mình. Họat động này của bị cáo, NBC và BĐDS cũng là sự chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho hoạt động tranh tụng của họ ở những giai đoạn tiếp theo không hoãn phiên tòa trong trường hợp này sẽ gây bất lợi cho hoạt động bào chữa của bên bào chữa cũng như ảnh hưởng đến hiệu quả tranh tụng của họ tại phiên tòa.
Trong hoạt động thực tiễn, do bị cáo và BĐDS không hiểu biết về pháp luật hoặc không ý thức được tầm quan trọng khi thực hiện quyền tự bảo vệ mình trước Tòa hay do các cơ quan tố tụng chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho họ như: Chỉ phổ biến quyền mà không giải thích cho họ cách thực hiện quyền như thế nào nên họ rất khó thực hiện quyền của mình tại thủ tục này về yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét, yêu cầu hoãn phiên tòa khi có người TGTT vắng mặt… Có trường hợp họ thực hiện nhưng không được sự quan tâm của HĐXX, đa số là không được chấp nhận. Sự không chấp nhận không được giải thích rõ ràng mà thường là HĐXX trả lời “xét thấy không cần thiết” hoặc “hồ sơ đã rõ ràng”… Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả tranh tụng của bị cáo, và BĐDS tại các thủ tục tiếp theo. HĐXX thường xem nhẹ ý kiến của BĐDS vì họ nghĩ rằng, BĐDS chỉ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra mà chưa thấy được họ là chủ thể của một bên tranh tụng có chức năng bào chữa, hoặc HĐXX thường xem tư cách tố tụng của BĐDS gắn liền với trách nhiệm của bị cáo.
Trên thực tế vẫn còn tồn tại hiện tượng HĐXX chưa thật sự tôn trọng các quyền của người bào chữa, không đáp ứng được các yêu cầu của NBC cho dù các yêu cầu đó là hợp lý và có căn cứ như: Yêu cầu triệu tập người làm chứng mới hoặc đưa thêm vật chứng hoặc tài liệu ra xem xét…. ý kiến của NBC rất ít được HĐXX quan tâm bằng ý kiến của KSV. Nhiều trường hợp có người TGTT vắng mặt tại phiên tòa, KSV đề nghị hoãn phiên tòa thì HĐXX chấp nhận ngay, còn NBC đề nghị hoãn phiên tòa thì HĐXX thường hỏi ý kiến KSV và nếu KSV không chấp nhận thì HĐXX cũng không chấp nhận. Điều này cho thấy HĐXX đối xử với NBC chưa thật sự bình đẳng so với KSV, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tranh tụng tại phiên tòa HSST.
2.2.2.2. Sự tham gia của bị cáo, người bào chữa và bị đơn dân sự tại thủ tục xét hỏi.
Theo BLTTHS năm 2003, hoạt động tranh tụng của bị cáo, NBC và BĐDS tại thủ tục này là đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu (Điều 50, 53 và 58), đề nghị chủ tọa hỏi thêm những tình tiết cần làm sáng tỏ (Điều 207); sau khi KSV đọc bản cáo trạng, bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết liên quan đến vụ án, trả lời những câu hỏi của người tham gia xét hỏi (Điều 209); BĐDS trình bày ý kiến, tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại và trả lời những câu hỏi của người tham gia xét hỏi (Điều 53 và 21)); NBC tham gia hỏi bị cáo, NBH, NĐDS, BĐDS, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ, hỏi người làm chứng (Điều 209 đến 211); Bị cáo, NBC và BĐDS tham gia xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, nhận xét những tài liệu về việc trình bày, báo cáo của cơ quan, tổ chức (Điều 212 đến 214).
Sau khi KSV đọc bản cáo trạng, bị cáo có quyền trình bày ý kiến của mình về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Đây là cơ sở tốt nhất để bị cáo đưa ra ý kiến về nội dung của bản cáo trạng đã truy tố, các bên tranh tụng cũng như HĐXX có cái nhìn tổng quát về nội dung bản cáo trạng. Lúc này, các chủ thể có quyền xét hỏi chưa đặt câu hỏi đối với bị cáo nên việc trình bày ý kiến của bị cáo được chủ động, không bị gò ép vào những câu hỏi mang tính chất buộc tội của bên buộc tội. Việc trả lời câu hỏi đối với những người tham gia xét hỏi là một trong những hoạt động tranh tụng của bị cáo tại thủ tục này. Khác với pháp luật ở một số nước như: Nhật Bản, Úc, Pháp, Đức, Malaysa thì bị cáo có quyền im lặng suốt cả thời gian xét xử… Trong khi đó, ở Việt Nam nhiều khi bị cáo khai khác với nội dung bản cáo trạng hoặc im lặng thì KSV và HĐXX cho rằng bị cáo ngoan cố, không thành khẩn khai báo…
Thực tiễn xét xử cho thấy, bị cáo rất ít khi trình bày các tình tiết, xuất trình các chứng cứ và tài liệu mới tại thủ tục này. Bởi lẽ, có thể bị cáo hoàn toàn không biết, không nghĩ ra là họ có quyền trưng ra tài liệu, đồ vật. Vì trước đó hoàn toàn không có ai hướng dẫn, giải thích cho họ… hoặc khi bị cáo thực hiện quyền này nhưng HĐXX không quan tâm mà thường chú ý đến các tình tiết, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Nhiều bản án sơ thẩm bị hủy, sửa vì HĐXX không ghi nhận, xem xét ý kiến, đề nghị hay các tài liệu, chứng cứ có giá trị của bị cáo xuất trình tại Tòa. Do vậy chúng ta cần chấm dứt tình trạng những tình tiết mới tại phiên tòa ngay cả khi được thẩm tra, xem xét, xác định mà vẫn bị HĐXX dùng các tài liệu có trong hồ sơ để nhận định, đánh giá theo chủ quan và phủ nhận những tình tiết, tài liệu bị cáo đã khai, đã cung cấp tại phiên tòa.
Bị cáo là chủ thể của một bên tranh tụng tại phiên tòa HSST, có quyền bình đẳng với các chủ thể khác tại phiên tòa, nhưng pháp luật thực định không cho bị cáo quyền được tham gia xét hỏi các bị cáo và những người TGTT khác tại phiên tòa là một hạn chế. Trong khi đó, NBC tham gia trên cơ sở yêu cầu của bị cáo hoặc các trường hợp khác do luật định, quyền của NBC phát sinh trên cơ sở quyền của bị cáo, chủ yếu là thực hiện các quyền của bị cáo thì họ được tham gia xét hỏi, còn bị cáo là người bị buộc tội trực tiếp nhưng không được tham gia xét hỏi là không khách quan. Khi hỏi bị cáo KSV hỏi có những tình tiết liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội của bị cáo. Tuy nhiên KSV là chủ thể của bên buộc tội thì làm sao hỏi để gỡ tội cho bị cáo được khách quan? Phiên tòa có NBC tham gia thì NBC xét hỏi để xác định các tình tiết gỡ tội cho bị cáo. Còn tại phiên tòa không có NBC tham gia thì hậu quả như thế nào? Chắc chắn câu trả lời là tại các phiên tòa này, bị cáo chỉ có nghĩa vụ trả lời những câu hỏi mà đa số các phiên tòa sơ thẩm hiện nay là không có NBC tham gia, đặc biệt NBC là các Luật sư chuyên nghiệp. Như vậy, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án (Điều 19) đã không mang lại giá trị đích thực của nó. Mặt khác, ở góc độ nhân đạo và quyền con người, thì pháp luật chưa có qui định bảo vệ những người yếu thế, cụ thể là những người không đủ điều kiện về tài chính để thuê luật sư, vì không có luật sư nên bên bào chữa không được tham gia xét hỏi tại phiên tòa và hệ quả là bị cáo rất khó khăn trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình trên thực tế. Tuy pháp luật cho phép bị cáo có quyền đề nghị với chủ tọa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ, nhưng việc đề nghị này có được chủ tọa phiên tòa chấp nhận hay không mà nếu được chấp nhận thì câu hỏi đó có đúng như ý định của bị cáo muốn hỏi hay không?... Đành rằng bị cáo là người bị buộc tội và với tư cách này thì họ bị hạn chế một số quyền nhất định, nhưng theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì họ vẫn là người chưa có tội. Chúng tôi nhất trí với quan điểm của TS. Nguyễn Văn Tuân cho rằng “Tại phiên tòa bị cáo có thể hỏi những người làm chứng, giám định viên, bị cáo khác, tham gia xem xét vật chứng và giải thích đối với lời khai của người làm chứng, giám định viên, những bị cáo khác. Bị cáo có quyền bình đẳng với người buộc tội và NBC trong việc trình bày và kiểm tra chứng cứ” (27)
Để cải cách tư pháp theo yêu cầu nâng cao tranh tụng tại phiên tòa thì BLTTHS cần bổ sung theo hướng qui định quyền được tham gia xét hỏi của bị cáo đối với các bị cáo và những người TGTT khác tại phiên tòa khi được chủ tọa phiên tòa cho phép và trình tự xét hỏi là hỏi sau bên buộc tội là phù hợp.
Tham gia xét hỏi là hoạt động tranh tụng quan trọng của NBC và nhất là luật sư tại thủ tục này. Theo TS. Phan Hữu Thư thì: “Việc tham gia xét hỏi của luật sư là nhằm làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án. Do đó, Luật sư phải là người giữ vai trò chất xúc tác của quá trình tố tụng. Về mặt thói quen, KSV thường sa đà vào việc buộc tội đơn thuần trong các vụ án hình sự, còn Tòa án có thể bị ám ảnh bởi các ý kiến chủ quan nhiều khi đã được phê chuẩn trước. Vì vậy, Luật sư giúp cho KSV cũng như Thẩm phán thực tế hơn khi xem xét và đưa ra các kết luận. Hơn nữa, Luật sư thường đi vào khai thác các tiểu tiết (mà có thể KSV hoặc Thẩm phán cho là thứ yếu) do đó làm cho việc xét xử toàn diện hơn. Từ các tiểu tiết này có thể giúp Thẩm phán phát hiện ra các tình tiết quan trọng của vụ án”(28). Cùng với việc tham gia xét hỏi, NBC còn phải quan sát diễn biến của phiên tòa để giúp đỡ bị cáo về mặt pháp lý trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng, phản đối các vi phạm thủ tục tố tụng trong quá trình xét hỏi của các chủ thể khác như: ép cung, mớm cung, dụ cung, đe dọa hoặc nhắc lại lời khai tại cơ quan điều tra trước khi xét hỏi hoặc đặt các câu hỏi phiến diện, không liên quan đến vụ án, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bị cáo… Ban chỉ đạo cải cách tư pháp gợi ý: “NBC cũng có quyền phản đối những câu hỏi từ những người TGTT, THTT nếu thấy trái pháp luật tố tụng. Việc phản đối có hiệu lực nếu được chủ tọa phiên tòa đồng ý. Khi được sự ủy quyền của người mình bào chữa, Luật sư có quyền trả lời mọi câu hỏi chất vấn của đại diện VKS giữ quyền công tố tại phiên tòa”(29). Tuy nhiên những gợi ý này không được các nhà làm Luật Việt Nam thể chế vào BLTTHS năm 2003 là một thiếu sót. Khi tham gia xét hỏi bị cáo, NBC có thể bổ sung, giải thích làm rõ một số điểm trong lời khai của bị cáo, giúp bị cáo nhớ lại sự kiện phạm tội, một số tình tiết của vụ án. NBC cần chủ động, tích cực tham gia xét hỏi NBH, NĐDS, BĐDS, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng…. để làm rõ những bất hợp lý, những mâu thuẫn trong các lời khai hoặc mâu thuẫn giữa các lời khai với các chứng cứ khác của vụ án. NBC cần chủ động đề xuất với HĐXX và tham gia xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, nhận xét báo cáo của cơ quan, tổ chưc, nhận xét kết luận giám định… để phục vụ cho hoạt động bào chữa của mình ở thủ tục tranh luận đạt hiệu quả.
Thực tiễn xét xử thấy rằng, trước khi xét xử công khai tại phiên tòa, nhiều vụ án đã được Chánh án (cấp huyện) và UBTP (cấp tỉnh) hoặc Tòa án cấp trên (do cấp dưới thỉnh thị án) định hướng cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa  về đánh giá chứng cứ, tội danh và mức hình phạt… Có vụ án mà địa phương xác định là án điểm thì tất cả những vấn đề liên quan đến vụ án đều được cấp ủy và lãnh đạo địa phương duyệt trước dẫn đến tình trạng bị cáo chưa bị xét xử nhưng đã bị HĐXX định kiến là người có tội. Lúc này, việc tham gia xét hỏi của NBC bị hạn chế bởi sự điều khiển của HĐXX theo bản án đã định sẵn. Tình trạng này, làm cho việc xét hỏi của NBC chỉ là tính hình thức nhằm hợp thức hóa hoạt động của Tòa án. Điều này không chỉ vi phạm nguyên tắc tranh tụng mà các nguyên tắc khác như suy đoán vô tội, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật… cũng bị vi phạm. Do đó, đa số các Luật sư đều đề nghị bỏ việc “báo cáo án”; “trao đổi án”; “thỉnh thị án”; hay “chỉ đạo án” để chấm dứt tình trạng “án bỏ túi” đang diễn ra hiện nay. Nhiều Thẩm phán còn xem nhẹ vai trò của NBC trong thủ tục xét hỏi, nhiều yêu cầu và đề nghị của NBC có căn cứ tại thủ tục này không được HĐXX chấp nhận. Một hạn chế từ phía NBC là nhiều NBC (chủ yếu là các Luật sư) chưa chú trọng đến hoạt động xét hỏi, chưa thấy hết ý nghĩa và tầm quan trọng của thủ tục xét hỏi nên trong xét hỏi họ rất thụ động. Có người trong suốt quá trình xét hỏi không tham gia xét hỏi  ai hay tham gia xét hỏi rất hạn chế hoặc đặt câu hỏi không liên quan đến vụ án. Đối với những vụ án có đông bị cáo và người TGTT, một số NBC thiếu sự chuẩn bị do vậy câu hỏi đặt ra trùng lặp với câu hỏi của những người đã hỏi trước, câu hỏi dài dòng, không rõ nghĩa khiến HĐXX có lý do để cắt những câu hỏi của NBC. Một hiện tượng có tính phổ biến là KSV, HĐXX thường công bố lời khai của bị cáo và những người TGTT khác tại cơ quan điều tra một cách tóm tắt, đôi khi không đúng với lời khai của họ tại cơ quan điều tra. Lẽ ra NBC phải can thiệp kịp thời nhưng NBC lại bỏ qua và cũng có trường hợp HĐXX không chấp nhận yêu câu của NBC. Thực tiễn xét xử còn cho thấy, nhiều trường hợp NBC xuất trình những tài liệu mới có liên quan đến các tình tiết của vụ án nhưng không được HĐXX công bố, trong đó không ít tài liệu rất quan trọng, có giá trị chứng minh các tình tiết khách quan của vụ án.
So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao vai trò của NBC tại thủ tục xét hỏi. Tuy nhiên, khi nghiên cứu Điều 208 BLTTHS năm 2003 thì NBC không có quyền được công bố lời khai tại cơ quan điều tra như chủ thể của bên buộc tội (KSV) là một hạn chế của pháp luật thực định, chưa thể hiện sự bình đẳng trong hoạt động chứng minh của bên bào chữa so với bên buộc tội. Trong thực tiễn xét xử NBC vẫn công bố những lời khai tại cơ quan điều tra để thực hiện hoạt động tranh tụng của mình tại thủ tục xét hỏi vẫn được KSV và HĐXX chấp nhận. Do vậy, để mở rộng tranh tụng tại phiên tòa, BLTTHS cần bổ sung theo hướng qui định NBC có quyền công bố những lời khai tại cơ quan điều tra trong thủ tục xét hỏi ở phiên tòa HSST là hoàn toàn phù hợp.
Căn cứ qui định của pháp luật, BĐDS chỉ được trình bày những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, những tình tiết của vụ án liên quan đến họ và có nghĩa vụ trả lời câu hỏi của những người tham gia xét hỏi bị cáo vànhững người TGTT khác mà chỉ có quyền đề nghị với chủ tọa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ là một hạn chế của pháp luật thực định. Điều này đã hạn chế tính tích cực, chủ động của BĐDS trong việc thực hiện chức năng bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng tại phiên tòa HSST.
So với BĐDS trong luật tố tụng Dân sự Việt Nam thì tại phiên tòa, BĐDS trong Luật TTHS có sự hạn chế hơn. Đương sự trong vụ án dân sự có quyền hỏi lẫn nhau và hỏi người làm chứng mà không cần có sự đồng ý của HĐXX (Điều 222 Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam). Mặt khác, Điều 19 BLTTHS qui định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án như sau: “KSV, bị cáo, NBC, NBH, NĐDS, BĐDS… đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ…” mà xét hỏi cũng là cách đưa ra chứng cứ để chứng minh tại phiên tòa HSST. Trong khi đó người bảo vệ quyền lợi của BĐDS (họ tham gia trên cơ sở yêu cầu của BĐDS và thực hiện quyền của BĐDS) thì lại có quyền hỏi bị cáo và những người TGTT khác tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của BĐDS. Do đó, khi mở rộng tranh tụng tại phiên tòa, việc xét hỏi chính được chuyển từ HĐXX cho các bên tranh tụng và khi HĐXX không tham gia xét hỏi hoặc hạn chế tham gia xét hỏi để tập trung thực hiện chức năng xét xử thì BĐDS tham gia xét hỏi bị cáo và những người TGTT khác là hết sức cần thiết cho quá trình tranh tụng. Pháp luật qui định cho các bên tranh tụng quyền bình đẳng trước Tòa án thì phải cho phép họ thực hiện các hoạt động chứng minh bình đẳng trước Tòa, phải qui định cho họ quyền tham gia xét hỏi tại phiên tòa HSST khi được chủ tọa cho phép và trình tự xét hỏi là sau bị cáo và NBC là hoàn toàn phù hợp với lý luận và thực tiễn.
Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa HSST thì BLTTHS cần bổ súng theo hướng qui định BĐDS có quyền được trực tiếp tham gia xét hỏi bị cáo và những người TGTT khác tại phiên tòa HSST khi được chủ tọa cho phép và trình tự xét hỏi là sau bị cáo và NBC là hoàn toàn phù hợp với lý luận và thực tiễn.
2.2.2.3. Sự tham gia của bị cáo, người bào chữa và bị đơn dân sự tại thủ tục tranh luận.
Theo qui định của BLTTHS năm 2003, hoạt động tranh tụng của bị cáo, NBC và BĐDS tại thủ tục này là trình bày ký kiến, tranh luận tại phiên tòa (Điều 50, 53 và 58); bị cáo, NBC trình bày lời bào chữa và BĐDS trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 217); bị cáo, NBC và BĐDS trình bày ý kiến về lời luận tội của KSV và đưa ra đề nghị của mình, đáp lại ý kiến của người khác (Điều 218).
Trình tự phát biểu khi tranh luận của bị cáo là sau KSV và trước NBH, NĐDS là không phù hợp với lý luận và thực tiễn. Trong các chức năng cơ bản của TTHS thì chức năng buộc tội có trước là nguyên nhân của chức năng bào chữa, là tiền đề cần thiết cho chức năng xét xử, NBH, NĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ là các chủ  thể của chức năng buộc tội nên họ phải phát biểu trước trong thủ tục tranh luận. Còn bị cáo là người bị buộc tội, phải biết được bên buộc tội kết luận việc buộc tội như thế nào rồi từ đó trình bày lời bào chữa của mình mới lôgíc và khoa học. Việc qui định NBC và bị cáo phát biểu sau cũng là để tạo điều kiện cho họ nghe lời phát biểu của những người tham gia phiên tòa, cho họ điều kiện chuẩn bị lý lẽ phản bác lại việc buộc tội và tranh luận với những người tham gia tranh luận khác.
Trên thực tế thì bị cáo rất ít khi trình bày lời bào chữa hoặc thay vì trình bày lời bào chữa thì bị cáo lại trình bày hành vi phạm tội, nguyên nhân của tội phạm, nhân thân… và xin giảm nhẹ hình phạt. Có trường hợp bị cáo chỉ đưa ra kết luận về việc mình không thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hay tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như đề xuất của KSV là không đúng đắn… nhưng họ không đưa ra được những cơ sở cho kết luận đó và kết quả là việc trình bày của bị cáo không thuyết phục được HĐXX. Nguyên nhân là do trình độ, nhận thức, trình độ pháp luật của bị cáo còn hạn chế, họ không đủ khả năng để tự bào chữa cho mình. Nguyên nhân khác là do các cơ quan và người tiến hành tố tụng không giải thích rõ cho bị cáo biết được nội dung và cách thức thực hiện quyền bào chữa, nhiều bị cáo biết được quyền của mình nhưng không biết cách để sử dụng. Một nguyên nhân nữa là khi đứng trước vành móng ngựa, bị cáo bị hạn chế một số quyền công dân, bị sức ép về tâm lý, không đủ bình tĩnh, tự tin để có thể tự bào chữa cho mình đạt hiệu quả.
Đối đáp là một hoạt động tranh tụng rất quan trọng của bị cáo tại thủ tục này. Tuy nhiên, bị cáo rất ít khi đối đáp lại ý kiến của KSV, NBH, NĐDS … Bị cáo không đối đáp vì nghĩ rằng việc đối đáp là không cần thiết, những gì cần trình bày thì bị cáo đã trình bày trong lời bào chữa rồi hoặc nếu đối đáp thì cũng không thắng được KSV mà chỉ làm căng thẳng thêm mà thôi. Nguyên nhân khác là do KSV, HĐXX chưa chú trọng đến những lời đối đáp của bị cáo, chưa tạo điều kiện để bị cáo thực hiện quyền đối đáp của mình, chưa chú ý lắng nghe lời đối đáp của bị cáo. Nhiều trường hợp do trình độ, khả năng diễn đạt của bị cáo không đúng theo văn phong pháp lý, dài dòng nên bị KSV hay HĐXX cho là “cãi ẩu”; “cãi bừa” rồi ngắt lời bị cáo… Do vậy, tâm lý bị cáo rất e ngại trong việc đối đáp lại với bên buộc tội, nhất là đối đáp với KSV và hậu quả là tranh tụng chỉ diễn ra hình thức, buộc tội luôn ở thế mạnh hơn và bị cáo luôn ở vị trí yếu thế hơn trong các vụ án mà không có NBC tham gia bào chữa cho bị cáo.
Thông qua trình bày lời bào chữa, NBC sẽ làm rõ được những thiếu sót, phiến diện, thiếu căn cứ trong lời buộc tội  của KSV, lời buộc tội của NBH, những kết luận mang tính buộc tội và yêu cầu bồi thường của NĐDS. Đánh giá phản bác và tạo  điều kiện để bên buộc tội kiểm tra lại quan điểm của mình, chuẩn bị đưa ra những lời đối đáp tiếp theo. Tùy thuộc vào từng vụ án mà lời bào chữa của NBC có thể có một hay nhiều nội dung như: Không có hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị cáo không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm, tội danh mà VKS truy tố là không đúng, có căn cứ để chuyển sang tội danh khác nhẹ hơn, không có tình tiết định khung tăng nặng, có tình tiết định khung giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… Nếu bị cáo phạm tội thì NBC phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… để phản bác những đề xuất không có căn cứ của bên buộc tội và thuyết phục HĐXX. NBC sẽ đánh giá chứng cứ và đem đến cho bên buộc tội một cái nhìn về chứng cứ ở tư thế đối lập, giúp cho HĐXX đánh giá chứng cứ một cách toàn diện và bao quát nhất.
Đối đáp là hoạt động bào chữa vô cùng quan trọng của NBC tại thủ tục này. Qúa trình tranh tụng được thể hiện tập trung nhất và cao nhất là sự đối đáp của bên buộc tội và bên bào chữa, mà chủ yếu và cụ thể nhất là giữa KSV với NBC. Thông qua đối đáp NBC đưa ra được những thiếu sót, hạn chế không hợp lý, không thuyết phục trong lời luận tội của KSV. Trường hợp bên buộc tội mà cụ thể là KSV không phản bác được những ý kiến, luận điểm của NBC thì hiệu quả hoạt động bào chữa coi như đạt được và bản án hay quyết định của Tòa án phải nghiêng về bên bào chữa. Tuy nhiên, trên thực tế thì bên buộc tội nói chung và KSV nói riêng không phản bác được quan điểm của NBC nhưng HĐXX vẫn ra bản án hay quyết định không đúng với thực tế diễn biến cũng như kết quả tranh tụng. Thực trạng này người ta hay gọi là “án tại hồ sơ” hay “án bỏ túi” và Tòa án đã buộc tội thay cho bên buộc tội, đi ngược lại với định hướng cải cách tư pháp về tăng cường tranh tụng tại phiên tòa.
Theo qui định tại Điều 218 BLTTHS năm 2003 thì các bên tranh tụng có quyền đáp lại ý kiến của người khác nhưng không có qui định  các bên có quyền đặt câu hỏi và yêu cầu bên kia trả lời là một hạn chế, ở thủ tục tranh luận tại phiên tòa HSST, NBC thường đặt ra những quan điểm mang tính phản bác lời luận tội của KSV, chứng minh cho luận điểm bào chữa của mình và yêu cầu KSV trả lời nhưng KSV không trả lời. Để nâng cao chất lương tranh tụng. BLTTHS cần bổ sung theo hướng qui định những người tham gia tranh luận có quyền đặt câu hỏi và yêu cầu người tranh luận với mình trả lời, HĐXX là trọng tài có quyền quyết định bên bị hỏi có phải trả lời những câu hỏi đó hay không là hoàn toàn cần thiết.
Cũng như NĐDS, BĐDS tham gia tranh luận ở thủ tục tranh luận tại phiên tòa HSST không được tranh luận về phần hình phạt đối với bị cáo. Nguyên nhân là do BLTTHS chỉ cho phép họ có quyền trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chỉ có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường thiệt hại và cũng chỉ có nghĩa vụ trình bày những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Theo chúng tôi, việc không thừa nhận BĐDS là chủ thể của bên bào chữa và không qui định quyền được tranh luận về phần hình phạt để trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và gián tiếp bảo vệ quyền và lợi ích của bị cáo là một hạn chế của pháp luật thực định. Trong khi đó, BLTTHS qui định cho KSV, bị cáo, NBC, NĐDS, BĐDS… có quyền bỉnh đẳng trong việc tranh luận dân chủ trước Tòa án (Điều 19) nhưng lại không cho họ được quyền tranh luận về hình phạt của bị cáo thì liệu sự bình đẳng ở đây có bị vi phạm hay không?
Vấn đề này chúng ta có thể xem xét một số trường hợp như: Cha mẹ của bị cáo là người chưa thành niên phải bồi thường thiệt hại do bị cáo gây ra, pháp nhân hay cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội phải bồi thường cho nhân viên hoặc cán bộ của mình gây ra trong trường hợp thực hiện nhiệm vụ của pháp nhân… Trong những trường hợp này, cha mẹ hoặc pháp nhân trước tiên phải trình bày những vấn đề liên quan đến việc bào chữa để gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Họ cũng phải đối đáp với bên buộc tội để thuyết phục HĐXX  chấp nhận ý kiến của mình và bác bỏ những ý kiến đề xuất của bên buộc tội. Các hoạt động này nhằm mục đích cuối cùng là loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của BĐDS hoặc giảm mức bồi thường thiệt hại so với mức mà NBH hoặc NĐDS yêu cầu. BĐDS là chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Muốn chứng minh những vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì trước tiên phải chứng minh những vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự. Dù không cho họ tranh luận về hình phạt của bị cáo thì trong phần tranh luận của mình, BĐDS sẽ không tránh khỏi việc đề cập đến trách nhiệm hình sự của bị cáo. Trách nhiệm hình sự là cơ sở cho trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm hình sự có mối quan hệ biện chứng và luôn tỷ lệ với trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nếu không có trách nhiệm hình sự thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự không được đặt ra, trách nhiệm hình sự ở mức độ thấp thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án cũng không cao.
Để thực hiện đúng tinh thần tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp thì BLTTHS cần bổ sung theo hướng qui định BĐDS có quyền trình bày những vấn đề liên quan đến việc bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa HSST và được tranh luận về phần hình phạt của bị cáo. Trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa HSST của BĐDS là sau bị cáo và NBC là hoàn toàn phù hợp với lý luận và thực tiễn.
2.3. Vai trò của Tòa án trong quá trình tranh tụng tại  phiên tòa hình sự sơ thẩm.
2.3.1. Chức năng xét xử của Tòa án.
Không giống như chức năng buộc tội và bào chữa chỉ tồn tại trong lĩnh vực TTHS, chức năng xét xử còn tồn tại trong các lĩnh vực tố tụng dân sự, hành chính… Trong các lĩnh vực tố tụng khác nhau, chức năng xét xử biểu hiện những đặc thù riêng. ở đây, chúng tôi chỉ đề cập chức năng xét xử trong TTHS, trong mối quan hệ với chức năng buộc tội và bào chữa cũng như các chức năng khác trong TTHS.
Chức năng xét xử của Tòa án hiện nay đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau: Có quan điểm cho rằng: Chức năng xét xử là hoạt động đặc trưng, là nhiệm vụ của Tòa án, các Tòa án là cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do Tòa án đều phải qua xét xử, không một ai có thể bị buộc tội mà không qua xét xử của các Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố bằng Bản án hoặc có quan điểm lại cho rằng: Chức năng xét xử (chức năng giải quyết vụ án) là hoạt động của Tòa án nhằm giải quyết vụ án.
Theo quan điểm của chúng tôi: “chức năng xét xử là hoạt động tố tụng của Tòa án có thẩm quyền nhân danh Nhà nước áp dụng pháp luật vào trường hợp cụ thể như: xem xét và phán quyết người bị buộc tội có tội hay không có tội, nếu có tội thì trách nhiệm hình sự như thế nào cũng như các vấn đề khác có liên quan, được thực hiện trong mối quan hệ với các chức năng tố tụng khác nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và Nhà nước”.
Trong mối quan hệ giữa chức năng xét xử với các nguyên tắc cơ bản của TTHS thì nguyên tắc tranh tụng là tiền đề cần thiết cho chức năng xét xử. Chỉ trong điều kiện tranh tụng thì chức năng xét xử mới có thể vận hành một cách tốt nhất.
Về nội dung, chức năng xét xử là tất cả các hoạt động tố tụng của Tòa án để khẳng định hay bác bỏ yêu cầu buộc tội của bên buộc tội và các vấn đề khác có liên quan. Chức năng xét xử bao gồm hai nội dung chính là sự kiện và pháp lý. Nội dung sự kiện là trên cơ sở các tình tiết, chứng cứ Tòa án phải khẳng định sự tồn tại những sự kiện xẩy ra trên thực tế. Nội dung pháp lý là sau khi đã khẳng định sự tồn tại hay không tồn tại của các sự kiện thực tế, Tòa án phải căn cứ vào các qui phạm pháp luật cụ thể để đưa ra những đánh giá pháp lý về các sự kiện pháp lý thực tế đó, tức là các sự kiện thực tế đó có dấu hiệu phù hợp và chịu sự điều chỉnh bởi các nội dung qui phạm pháp luật nào.
Về bản chất, chức năng xét xử là hoạt động của Tòa án áp dụng pháp luật vào trường hợp cụ thể nhưng sự áp dụng pháp luật này mang tính đặc thù là nhân danh Nhà nước. Khác với hoạt động của trọng tài thương mại khi giải quyết tranh chấp giữa các bên cũng là hoạt động áp dụng pháp luật vào trường hợp cụ thể, cũng giải quyết hai nôị dung là sự kiện và pháp lý. Nhưng đặc trưng của hoạt động xét xử để phân biệt với hoạt động của trọng tài thương mại về dấu hiệu tính chất quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà nước và chỉ có Tòa án là chủ thể duy nhất được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện chức năng xét xử. Còn trọng tài thương mại là chủ thể nhân danh quyền lực của các bên để giải quyết tranh chấp giữa các bên, hoạt động của trọng tài thương mại không phải là hoạt động xét xử.
Về vai trò, chức năng xét xử là một trong những chức năng cơ bản của TTHS, có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo cho tiến trình TTHS được vận hành đúng pháp luật, đảm bảo quyền con người, quyền và lợi ích hợp của công dân, đảm bảo công bằng xã hội. Vai trò trung tâm và quyết định của Tòa án được qui định tại Điều 72 Hiến pháp và Điều 9 BLTTHS như: “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều này đã được Đảng và Nhà nước ta thể hiện rõ trong định hướng cải cách tư pháp là: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bỗ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm…”. chức năng xét xử xuất hiện sau chức năng buộc tội và bào chữa nhưng chức năng bào chữa có vai trò trung tâm và quyết định trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tại phiên tòa HSST, Tòa án thực hiện chức năng xét xử với vai trò trọng tài phân xử, dựa vào kết quả tranh tụng của bên buộc tội và bên bào chữa, xem xét một cách toàn diện các tài liệu, chứng cứ và cuối cùng ra phán quyết giải quyết vụ án.
Ở nước ta, Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng xét xử được qui định tại Điều 127 Hiến pháp và Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do pháp luật qui định là cơ quan xét xử của Nước CHXHCN Việt Nam…”.
Chủ thể thật sự của chức năng xét xử ở cấp sớ thẩm là Thẩm phán và HĐXX. Trước khi mở phiên tòa do Thẩm phán thực hiện và tại phiên tòa do HĐXX thực hiện.
2.3.2. Vai trò của Tòa án tại thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Theo pháp luật thực định, hoạt động của Tòa án (HĐXX) tại thủ tục này là chủ tọa đọc Quyết định đưa vụ án ra xét xử; sau khi Thư ký báo cáo danh sách những người được triệu tập; chủ tọa kiểm tra căn cước của những người đó và giải thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ tại phiên tòa; giải thích việc đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, KSV, Thư ký, người giám định, người phiên dịch; giải thích quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch, người giám định; giải thích quyền, nghĩa vụ và cách ly người làm chứng; giải quyết những yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt được qui định từ Điều 201 đến Điều 205 BLTTHS.
Chủ tọa thực hiện các hoạt động trên là nhằm tạo điều kiện cần thiết cho quá trình tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa ở thủ tục xét hỏi và tranh luận sau đó được khách quan, đúng pháp luật. Chủ tọa kiểm tra căn cước của những người TGTT nhằm mục đích xác định chính xác tư cách chủ thể của các bên tranh tụng. Chủ tọa phổ biến và giai thích quyền, nghĩa vụ của những người TGTT là nhằm mục đích thông báo cho các bên tranh tụng biết và tạo điều kiện cho họ thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tranh tụng. HĐXX giải quyết yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, KSV, Thư ký, người giám định, người phiên dịch là nhằm mục đích đảm bảo cho quá trình tranh tụng được diễn ra vô tư, khách quan và dân chủ. HĐXX giải quyết những yêu cầu về việc xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người TGTT vắng mặt thực chất là điều khiển quá trình tranh tụng, giữa bên buộc tội và bên bào chữa tại thủ tục này. Vai trò của HĐXX lúc này là người trọng tài vô tư, không thiên vị để giải quyết yêu cầu của các bên. Việc chấp nhận yêu cầu của bên này và bác bỏ yêu cầu của bên kia mà không giải thích rõ ràng, thấu đáo thì dễ dẫn đến sự hiểu nhầm về vai trò trọng tài của Tòa án trong quá trình tranh tụng của các bên.
Như vậy, hoạt động của Tòa án (HĐXX) tại thủ tục bắt đầu phiên tòa là nhằm kiểm tra sự có mặt của các bên tranh tụng và tạo ra những điều kiện cần thiết cho các bên tiến hành tranh tụng ở thủ tục xét hỏi và tranh luận tiếp theo đúng pháp luật, đạt hiệu quả. Tại thủ tục này, hoạt động tranh tụng giữa các bên đã diễn ra ở mức độ thấp và HĐXX đã thể hiện vai trò trọng tài của mình để giải quyết các xung đột, các lợi ích đối lập theo yêu cầu của các bên tranh tụng.
2.3.3. Vai trò của Tòa án tại thủ tục xét hỏi.
Theo pháp luật thực định, hoạt động của Tòa án tại thủ tục này là HĐXX hỏi bị cáo; hỏi NBH, NĐDS, BĐDS, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ; hỏi người làm chứng; xem xét vật chứng; xem xét tại chỗ; công bố những nhận xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức; hỏi người giám định; công bố lời khai tại cơ quan điều tra; và trình tự xét hỏi thì HĐXX là chủ thể hỏi trước các chủ thể khác được qui định từ Điều 207 đến Điều 215 BLTTHS.
Chúng tôi nhận thấy Tòa án là chủ thể của chức năng xét xử nhưng đã tham gia “quá tích cực” vào quá trình xét hỏi, một số nhiệm vụ của Tòa án nếu được giao cho bên buộc tội hoặc bào chữa thì sẽ hiệu quả hơn rất nhiều. Nhiều lúc hoạt động của Tòa án đã “lấn sân” hoạt động của bên buộc tội và bào chữa, pháp luật đã giao cho Tòa án quá nhiều quyền và trách nhiệm không phù hợp với chức năng của họ. Thực tiễn xét xử trong những năm qua không ít trường hợp thay vì trọng tài vô tư, khách quan thì Tòa án lại là người “dồn ép” bị cáo theo hướng kết tội như một công tố viên thứ hai, Tòa xét hỏi bị cáo mà không khác gì đang buộc tội bị cáo, Tòa hỏi bị cáo từ đầu đến cuối. Còn vị công tố đích thực đại diện cho Nhà nước buộc tội bị cáo tại phiên tòa thì lại thụ động trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình, im lặng và không tranh tụng, bởi lẽ công việc này đã có Tòa “giúp sức”. BLTTHS năm 2003 không có gì thay đổi đáng kể so với BLTTHS năm 1988 tại thủ tục xét hỏi. Tòa án (HĐXX) là người xét hỏi đầu tiên và là người đóng vai trò chủ đạo trong thủ tục xét hỏi. BLTTHS năm 2003, qui định chưa rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ của Tòa án và VKS khiến vai trò của hai bên còn trộn lẫn vào nhau. Trách nhiệm tìm sự thật vụ án đặt lên vai Tòa. Khi Viện chỉ “buộc”  mà không “chứng”  thì Tòa vẫn phải hỏi, phải xử.
Vai trò của chủ tọa tại thủ tục xét hỏi là vô cùng quan trọng, có tính chất quyết định đối với quá trình tranh tụng tại phiên tòa HSST. Chủ tọa là người điều khiển, tổ chức, chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tranh tụng và hành vi tố tụng tại phiên tòa. Trong điều kiện nâng cao tranh tụng tại phiên tòa thì chức năng xét xử, vai trò và hoạt động của chủ tọa phiên tòa phải được nhận thức thống nhất. Các bên tranh tụng thực hiện hoạt động chứng minh tại phiên tòa HSST, họ có trách nhiệm tham gia xét hỏi bị cáo và những người TGTT khác. Qúa trình xét hỏi là quá trình cọ xát trực tiếp đối chứng trực tiếp giữa bên buộc tội và bên bào chữa, chủ tọa nên hạn chế tham gia vào quá trình này mà chủ yếu làm nhiệm vụ trọng tài, nghe và quan sát để điều khiển hoạt động của các bên. Trong hoạt động thực tiễn chủ tọa vì “quá trích cực” nên đã không làm đúng với chức năng của mình như: Khi bị cáo không nhận tội, chủ tọa giải thích nếu khai báo thành khẩn thì được giảm nhẹ hình phạt; hay chủ tọa còn nói bị cáo ngoan cố thì không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; hoặc chủ tọa nhận xét lời khai của bị cáo và những người TGTT khác mang tính buộc tội hay gỡ tội… Những việc làm “quá trích cực” này của chủ tọa đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tranh tụng giữa các bên và đây cũng là nguyên nhân làm cho quá trình xét xử thiếu khách quan, không đảm bảo dânchủ, phiên tòa trở nên hình thức để HĐXX cùng với KSV buộc tội bị cáo. Trong quá trình xét hỏi đáng lẽ ra KSV phải là người bảo vệ bản cáo trạng tại phiên tòa thì KSV lại là người chứng kiến chủ tọa phiên tòa và HĐXX ra sức bảo vệ cáo trạng cho VKS. Thậm chí, có tình trạng ở một số phiên tòa KSV tham gia phiên tòa trong suốt thời gian xét hỏi không hỏi một câu nào mà chỉ đọc bản cáo trạng rồi ngồi xem HĐXX xét hỏi đến khi kết thúc phần xét hỏi thì đọc bản luận tội. Do đó Tòa án đã trở thành chủ thể buộc tội thay cho KSV, Tòa án đã đánh mất đi vai trò người trọng tài vô tư, khách quan giữa các bên trong quá trình tranh tụng. Thực tiễn xét xử cho thấy, sau khi công bố lời khai của những người TGTT, HĐXX thường truy xét bị cáo hoặc người TGTT đến cùng về sự mâu thuẫn trong lời khai của họ.Ví dụ, tại cơ quan điều tra bị cáo nhận đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng tại phiên tòa, bị cáo phủ nhận lời khai đó, chủ tọa sau khi công bố lời khai của bị cáo rồi đưa biên bản đó cho bị cáo xem và hỏi “có phải chữ ký của bị cáo không?”. Sau khi bị cáo xác nhận là chữ ký của mình, chủ tọa giải thích theo hướng buộc tội “lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra rất rõ ràng, cụ thể, phù hợp với các tài liệu khác. Tại sao hôm nay bị cáo lại chối tội? Chứng tỏ bị cáo rất ngoan cố không thành khẩn khai báo”. Thực trạng này đã làm cho tính vô tư, khách quan công minh của Tòa án không còn nữa, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Chủ toạ đã làm thay công việc của KSV, gây không khí căng thẳng tại phiên tòa và đây là cơ sở để những người có mặt tại phiên tòa cho rằng VKS và Tòa án là một, Tòa án chỉ hợp thức hóa cho cơ quan điều tra và VKS mà thôi.
Cùng với việc điều khiển xét hỏi, chủ tọa còn điều khiển xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ việc trình bày, công bố các tài liệu của vụ án và những nhận xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức… Theo chúng tôi, chủ tọa chỉ nên thực hiện các hoạt động này trong một số trường hợp, còn lại nên để cho các bên chủ động đưa ra đề xuất rồi chủ tọa quyết định. Căn cứ vào yêu cầu hoặc đề nghị của các bên tranh tụng, HĐXX đưa ra quyết định và trong quá trình thực hiện, chủ tọa giữ thái độ thật khách quan, không đưa ra nhận xét các ý kiến của bên buộc tội và bên bào chữa. Những nhận xét của chủ tọa chỉ được thể hiện trong bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Vai trò của Hội thẩm (bao gồm Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân) được thể hiện rõ nét nhất là tại phòng nghị án, còn thủ tục xét hỏi thì việc điều khiển chủ yếu là do chủ tọa điều khiển. Mặc dù họ không trực tiếp điều khiển xét hỏi nhưng họ là người giám sát việc xét hỏi tham gia hạn chế vào quá trình xét hỏi để lắng nghe và quan sát rồi cùng với chủ tọa đánh giá toàn bộ nội dung vụ án. Thực tiễn cho thấy Hội thẩm tham gia xét xử nói chung và xét xử vụ án hình sự nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Nhiều lúc Hội thẩm tham gia cho đủ thành phần HĐXX rồi hợp thức hóa phiên tòa cũng như bản án sơ thẩm…
Xét hỏi chính là cách thức chứng minh bằng các chứng cứ để khẳng định sự tồn tại hoặc không tồn tại của những sự kiện, tình tiết của vụ án. Tham gia vào thủ tục xét hỏi chỉ là nghĩa vụ của bên buộc tội và chứng minh không phải tội phạm là quyền của bên bào chữa. Tòa án là chủ thể của chức năng xét xử, Tòa án không phải là một trong các bên tranh tụng nên không tham gia xét hỏi mà là người điều khiển quá trình xét hỏi. Những câu hỏi của Tòa án tronng phần này chỉ là những câu hỏi mang tính thủ tục. Bất kỳ câu hỏi nào của Tòa án về các tình tiết của vụ án đều không đúng chức năng và còn có thể làm nghi ngờ sự vô tư, khách quan của Tòa án. Chúng tôi luôn đồng tình với quan điểm “trách nhiệm chứng minh của HĐXX được thể hiện chủ yếu ở việc xem xét và đánh giá tính hợp pháp và có căn cứ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án hoặc được các bên đưa ra tại phiên tòa, hướng hoạt động chứng minh của các chủ thể tập trung làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án”(30).
Trong hoạt động thực tiễn, HĐXX “quá tích cực” tham gia xét hỏi làm cho chúng ta có cảm giác là HĐXX đang tiến hành hợp thức hóa những gì có tại hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng chỉ là hình thức. Khi tích cực tham gia xét hỏi thì HĐXX khó có điều kiện tập trung xem xét, đánh giá những chứng cứ do các bên tranh tụng đưa ra. Việc tuyệt đối hóa vai trò của Tòa án trong quá trình xét hỏi là không đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên tranh tụng, khó đảm bảo sự vô tư, khách quan và công minh của Tòa án với vai trò là người trọng tài đứng giữa hai bên phân xử. Xét trong mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản của TTHS tại phiên tòa HSST, nếu HĐXX quá tích cực tham gia xét hỏi thì các chủ thể khác thuộc bên buộc tội và bên bào chữa sẽ mất đi tính chủ động, tích cực của mình vào quá trình xét hỏi để chứng minh vụ án.
BLTTHS năm 2003 qui định cho HĐXX và KSV có thể công bố lời khai tại cơ quan điều tra với một số điều kiện theo qui định tại khoản 2 Điều 208 BLTTHS. Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn, các chủ thể này thường công bố trước khi người được xét hỏi khai tại phiên tòa, đây là một dạng mớm cung cần phải loại bỏ trong điều kiện tranh tụng. Theo chúng tôi, việc HĐXX công bố lời khai tại cơ quan điều tra là một hạn chế của pháp luật thực định. Sẽ là hợp lý và khoa học hơn nếu để cho KSV, NBC và người bảo vệ quyền lợi của đương sự thực hiện hoạt động này trong quá trình xét hỏi. Trong điều kiện mở rộng tranh tụng tại phiên tòa thì nguyên tắc tranh tụng phải được chú trọng và đề cao. NBC, người bảo vệ quyền lợi của đương sự là chủ thể của một bên tranh tụng, có điều kiện tham gia rất sớm vào quá trình tố tụng, được nghiên cứu và sao chép các tài liệu có trong hồ sơ nên họ có quyền công bố lời khai tại cơ quan điều tra là hoàn toàn phù hợp với lý luận và thực tiễn. Nếu để HĐXX thực hiện cả hoạt động buộc tội và bào chữa, làm cho quá trình tranh tụng không đảm bảo bình đẳng, dân chủ và khách quan. Tòa án là chủ thể có trách nhiệm chứng minh tội phạm (Điều 10 BLTTHS) nhưng theo chúng tôi, Tòa án (HĐXX) là chủ thể của chức năng xét xử không có nghĩa vụ chứng minh tính có lỗi của bị cáo, không phải tìm chứng cứ để xác định bị cáo có thực hiện hành vi như bản cáo trạng đã truy tố hay không, mà là kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của những chứng cứ do các bên tranh tụng đưa ra. Hoạt động chứng minh của Tòa án là chứng minh căn cứ và lý do cho bản án và quyết định của mình. Sự chứng minh này có tính đặc thù so với hoạt động chứng minh của các chủ thể buộc tội và bào chữa. HĐXX vẫn có cơ hội công bố lời khai tại cơ quan điều tra nhưng thời điểm thích hợp nhất là lúc tuyên bản án HSST, nội dung công bố thể hiện ngay trong bản án HSST.
Do vậy, theo quan điểm của chúng tôi, để có được phiên tòa tranh tụng theo tinh thần Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 thì BLTTHS phải sửa đổi, bổ sung theo hướng qui định tham gia xét hỏi chỉ có các bên tranh tụng. Bên buộc tội tham gia xét hỏi trước bên bào chữa và các bên tranh tụng đóng vai trò chính trong quá trình xét hỏi để chứng minh việc buộc tội và gỡ tội. HĐXX là chủ thể điều khiển quá trình xét hỏi, tham gia xét hỏi sau cùng và chỉ hỏi mang tính thủ tục chứ không hỏi về tình tiết cụ thể của vụ án. Mặt khác, BLTTHS sửa đổi theo hướng qui định HĐXX không công bố  lời khai tại cơ quan điều tra mà chỉ có KSV, NBC, người bảo vệ quyền lợi của đương sự mới có quyền công bố lời khai tại cơ quan điều tra ở thủ tục xét hỏi.
2.3.4. Vai trò của Tòa án tại thủ tục tranh luận.
Theo pháp luật thực định thì hoạt động của Tòa án tại thủ tục này là chủ tọa điều khiển quá trình tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến đề nghị KSV đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của NBC và những người TGTT khác mà ý kiến đó chưa được KSV tranh luận, HĐXX quyết định trở lại việc xét hỏi, xem xét rút quyết định tuy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn được qui định tương ứng từ Điều 217 đến Điều 231 BLTTHS.
Vai trò của Tòa án trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa HSST được thể hiện rõ nét và tập trung nhất tại thủ tục tranh luận. Ở đây Tòa án không  can thiệp sâu vào chức năng buộc tội và bào chữa nữa mà chủ yếu là làm người trọng tài vô tư đứng giữa hai bên tranh tụng, điều khiển hoạt động tranh tụng giữa các bên và căn cứ vào kết quả tranh tụng đó để ra phán quyết của mình khi nghị án.Tại thủ tục này, chủ tọa là người điều kiện chủ yếu việc tranh luận, còn vai trò của Hội thẩm chủ yếu là người lắng nghe, quan sát các bên tranh luận để chuẩn bị cho hoạt động của mình ở thủ tục nghị án tiếp theo.
Thực tiễn xét xử thấy rằng, những vụ án mà bị cáo không có NBC tham gia thì bị cáo rất ít khi thực hiện quyền tranh luận của mình đối với bên buộc tội. Thường thì chủ tọa hỏi bị cáo có tranh luận gì không, nếu bị cáo trả lời không thì coi  như bị cáo chấp nhận quan điểm buộc tội. Tuy nhiên, có phiên tòa chủ tọa đã làm đúng vai trò trọng tài của mình và tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo được tham gia tranh luận dân chủ với bên buộc tội.
Chủ tọa điều khiển cho bên buộc tội và bào chữa trình bày lời buộc tội và bào chữa như: Lời luận tội của KSV, buộc tội của NBH, ý kiến của NĐDS và lời bào chữa của bị cáo, NBC, ý kiến của BĐDS cùng với những ý kiến khác của các bên tranh tụng cũng như người có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án… Chủ tọa điều khiển việc đối đáp của hai bên buộc tội và bên bào chữa, chủ yếu là đối đáp những vấn đề mà các bên có ý kiến trái ngược nhau, giữa VKS với NBC, giữa NBH với bị cáo, giữa NĐDS với BĐDS … Ngoài việc điều khiển thủ tục tranh luận theo yêu cầu tranh tụng (chủ yếu là giữa bên buộc tội và bên bào chữa) thì chủ tọa còn điều kiện quá trình tranh luận đối với tất cả các vấn đề liên quan đến vụ án, giữa các chủ thể có ý kiến, có lập luận không thống nhất với nhau (kể cả ý kiến, quan điểm của các chủ thể cùng một bên buộc tội hoặc bào chữa) và tất cả ý kiến của những người tham gia tranh luận khác.
Thực tiễn xét xử thấy rằng: “Việc tranh luận tại phiên tòa giữa KSV với bị cáo, Luật sư và người TGTT khác còn nhiều trường hợp chưa đúng với tinh thần của Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị và các qui định  của BLTTHS. Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa chưa làm hết trách nhiệm trong việc điều kiện tranh luận; Căn cứ vào biên bản phiên tòa có trong hồ sơ vụ án thì hầu như các ý kiến bào chữa của bị cáo, của Luật sư không được KSV đáp lại”(31). BLTTHS năm 2003 cũng không có gì thay đổi đáng kể so với BLTTHS năm 1988 tại thủ tục tranh luận. Thủ tục này chỉ có bổ sung thêm ở Điều 218 qui định nghĩa vụ của KSV phải đưa ra lập luận của mình và quyền của Tòa án đề nghị KSV phải đáp lại những ý kiến chưa được tranh luận. Với những sửa đổi knhư vậy thì không thể có phiên tòa tranh tụng như tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ chính trị được. Sau khi có Nghị quyết 08 của Bộ chính trị và BLTTHS được sửa đổi, bổ sung năm 2003, “Tòa án đã tạo điều kiện, đảm bảo cho những người TGTT thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của họ; Luật sư và những người TGTT được trình bày hết ý kiến của minh…; Việc phán quyết của Tòa án chủ yếu dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa…”(32). Tuy nhiên trong thực tế xét xử thì pháp luật thực định ở một số trường hợp, một số vụ án bị xâm phạm nghiêm trọng. Ví dụ: Gân đây Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử vụ PMU 18 thì Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa Ngô Thị Yến đã làm một việc khá lạ lùng làm các Luật sư bào chữa bức xúc là “nghiêm khắc yêu cầu các Luật sư chỉ trình bày ngắn gọn trong vòng 10 phút và khi Luật sư trình bày mới được 5 phút chủ tọa đã cắt ngang vì hết thời gian… Hoặc có trường hợp đang tranh luận, vì thiếu bản lĩnh về đánh giá chứng cứ nên HĐXX cho ngừng phiên tòa để xin ý kiến của lãnh đạo Tòa án, sau đó tiếp tục xét xử… Sở dĩ có những tồn tại như vậy là vì: Do các Thẩm phán còn lúng túng, không nắm chắc qui định của Điều 218 BLTTHS và tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ chính trị, mặt khác do đội ngũ Thẩm phán còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới.
Chủ tọa có quyền đề nghị KSV phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của NBC và những người TGTT khác mà những ý kiến đó chưa được KSV tranh luận. Tuy nhiên, trong thực tiễn nhiều phiên tòa diễn ra không đúng như yêu cầu của pháp luật thực định. Tòa án nhân dân tối cao đã kết luận: “Chủ tọa phiên tòa cần yêu cầu KSV không được né tránh mà phải có ý kiến tranh luận lại; cần chấm dứt tình trạng, sau khi Luật sư, bị cáo và người TGTT đưa ra những ý kiến phản bác lời luận tội của KSV thì KSV không tranh luận mà chỉ trả lời vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố hoặc không có ý kiến gì tùy HĐXX xem xét”(33).
Tranh tụng tại phiên tòa HSST ảnh hưởng rất lớn đến việc rút quyết định truy tố của KSV. Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, KSV có thể rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn nhưng HĐXX vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án (Điều 145); trong trường hợp KSV rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, HĐXX yêu cầu những người TGTT trình bày ý kiến về việc rút quyết định truy tố đó (Điều 221) và nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội, nếu thấy việc rút quyết định truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị với VKS cấp trên trực tiếp (Điều 222). Việc thay đổi nội dung buộc tội tại phiên tòa HSST là điều hết sức bình thường và nó thường xẩy ra khi mà vấn đề tranh tụng được thể hiện đúng với bản chất của nó. Các qui định của BLTTHS về rút quyết định truy tố của KSV tại phiên tòa có một số hạn chế nhất định. Khi KSV rút một phần quyết định truy tố thì về nguyên tắc, Tòa án chỉ xét xử nội dung tuy tố còn lại (trừ  vụ án được khởi tố ttheo yêu cầu của NBH). Mặt khác, khi KSV rút toàn bộ quyết định truy tố tại phiên tòa (trừ vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH) thì HĐXX phải tuyên bố bị cáo không phạm tội mới đúng. Pháp luật qui định, nếu không đồng ý với việc rút toàn bộ quyết định truy tố của KSV thì HĐXX tạm đình chỉ và kiến nghị với VKS cấp trên là không hợp lý, không khoa học.
Bởi lẽ, vụ án đang trong quá trình tố tụng tại phiên tòa HSST lại có sự can thiệp của cơ quan tố tụng cấp trên (VKS cấp trên) là không đúng với nguyên tắc hai cấp xét xử. Giả sử nếu VKS cấp trên không đồng ý với kiến nghị của Tòa án thì quyết định tạm đình chỉ đó được xử lý như thế nào? Tiếp tục mở phiên tòa xét xử hay đình chỉ vụ án? Trong khi đó, căn cứ để mở phiên tòa hay đình chỉ vụ án không được pháp luật điều chỉnh. Nếu đình chỉ vụ án thì Chánh án, Thẩm phán hay HĐXX sẽ thực hiện hoạt động này?  và ở đây có sự quay vòng của quá trình tố tụng, tốn kém thời gian, công sức và tiền của nhưng vấn đề không được giải quyết thỏa đáng.
Do vậy, để mở rộng tranh tụng tại phiên tòa HSST thì pháp luật cần có những qui định đảm bảo cho khả năng thay đổi nội dung buộc tội tại phiên tòa. Một trong những yêu cầu đó là BLTTHS cần sửa đổi theo hướng nếu KSV rút một phần quyết định truy tố hoặc quyết định về tội nhẹ hơn thì HĐXX tiến hành xét xử phần còn lại của quyết định truy tố hoặc xét xử theo tội nhẹ hơn mà KSV kết luận, nếu KSV rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội. Riêng đối với những vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH, nếu KSV rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn nhưng NBH hoặc người đại diện hợp pháp của họ không đồng ý thì HĐXX vẫn phải tiến hành xét xử toàn bộ vụ án.
2.4. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả tranh tụng tại  phiên tòa hình sự sơ thẩm.
2.4.1. Một số kiến nghị mang tính định hướng.
- Cần chính thức ghi nhận nguyên tắc tranh tụng như một nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS Việt Nam để nó giữ vai trò chi phối và định hướng mọi hoạt động cũng như hành vi tranh tụng của tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình TTHS và phải cụ thể hóa các nội dung của nguyên tắc này trong toàn bộ tiến hành tố tụng. Sự hiện diện của nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS là cơ sở pháp lý quan trọng để các bên tranh tụng được bình đẳng với nhau trong việc thực hiện chức năng tranh tụng của mình và Tòa án với chức năng xét xử là vị trọng tài vô tư, khách quan, điều khiển, quyết định kết quả của quá trình tranh tụng. Đây là giải pháp pháp lý hy hữu để có thể tạo ra sự chuyển biến tích cực trong hoạt động TTHS ở nước ta, phải làm cho hoạt động TTHS phù hợp với qui luật khách quan vốn có của nó.
- BLTTHS cần có sự tách bạch và phân định rõ các chức năng cơ bản của TTHS là buộc tội, bào chữa và xét xử. Chức năng buộc tội được thực hiện bởi các chủ thể như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra; Điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS, KSV, NBH, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ; Chức năng bào chữa được thực hiện bởi các chủ thể: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, NBC, BĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Chức năng xét xử được thực hiện bởi các chủ thể: Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm. Chức năng buộc tội và bào chữa là đối tượng nhằm phủ định lẫn nhau, bên buộc tội và bên bào chữa tranh tụng bình đẳng với nhau tại phiên tòa HSST. Tòa án thực hiện chức năng xét xử, là trọng tài vô tư, khách quan, điều khiển quá trình tranh tụng đó. BLTTHS cần qui định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể các bên tranh tụng cùng với nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án cho phù hợp với chức năng cơ bản trong BLTTHS.
Tòa án cần phát huy được vai trò trọng tài của mình, bảo đảm cho các bên tranh tụng được bình đẳng với nhau tại phiên tòa HSST.
- BLTTHS cần sửa đổi theo hướng tại phiên tòa HSST, VKS chỉ thực hiện một chức năng duy nhất là chức năng công tố, các chức năng giám sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa nên giao cho HĐXX. Phiên tòa sơ thẩm trong điều kiện tranh tụng thì nhiệm vụ buộc tội của KSV là rất nặng nề. Nhà nước nên giao cho họ một nhiệm vụ duy nhất là thực hành quyền công tố, TGTT đề bảo vệ cáo trạng, thuyết phục HĐXX quan điểm buộc tội của VKS tại phiên tòa HSST. Trong quá trình cải cách tư pháp, vấn đề nâng cao chất lượng công tố của KSV, đảm bảo tranh tụng với Luật sư, NBC và những người TGTT khác tại phiên tòa HSST phải đặt lên hàng đầu. HĐXX là người trọng tài, điều khiển tranh tụng, có quyền cao nhất và có điều kiện nhất trong việc đảm bảo pháp chế. Tòa án không còn can thiệp vào các chức năng không phải xét xử thì việc giám sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa do HĐXX thực hiện là khách quan nhất và có hiệu lực nhất.
- Chấm dứt tình trạng họp ba ngành cơ quan điều tra, VKS và Tòa án để quyết định về vụ án trước khi xét xử tại phiên tòa. Nếu tình trạng này còn tồn tại thì tranh tụng không còn ý nghĩa, sự độc lập của Tòa án cũng sẽ bị xâm phạm. cơ quan điều tra và VKS có thể họp bàn với nhau về quá trình điều tra giải quyết vụ án vì họ là cơ quan có chức năng buộc tội. Tòa án là cơ quan xét xử, nếu Tòa án tham gia vào cuộc họp này thì Tòa án sẽ mất đi vai trò của mình trong quá trình tranh tụng giữa các bên. Mặt khác, khi Thẩm phán tham gia vào cuộc họp này thì các ý kiến của cơ quan điều tra và VKS cũng như ý kiến của Thẩm phán về vụ án sẽ ảnh hưởng tới sự độc lập của các thành viên HĐXX khi xét xử vụ án đó.
- Cần xoá bỏ trình trạng “duyệt án”; “thỉnh thị án”, “chỉ đạo án” và cơ chế “án bỏ túi” đã và đang tồn tại trong TTHS ở nước ta. Nếu thực trạng này còn tồn tại thì tranh tụng tại phiên tòa HSST chỉ là hình thưc. Nguyên tắc tranh tụng phải được tôn trọng và tuân thủ triệt để. Các ý kiến, lập luận, đề xuất của các bên tranh tụng cần được đánh giá như nhau và chúng phải được chấp nhận khi có căn cứ. Những ý kiến, lập luận, đề xuất do các bên đưa ra không được chấp nhận cũng phải được HĐXX phân tích, giải thích trong bản án hoặc quyết định của mình.
2.4.2. Một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật thực định.

- Bổ sung khoản 1 Điều 23 BLTTHS như sau: VKS thực hành quyền công tố trong TTHS, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Tại phiên tòa sơ thẩm, VKS chỉ thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố để bảo vệ cáo trạng đã truy tố.
- Bổ sung điểm g, khoản 2 Điều 50 BLTTHS như sau: Tình bày ý kiến xét hỏi những người TGTT nếu được chủ tọa phiên tòa cho phép, trành luận tại phiên tòa.
- Bổ sung điểm đ khoản 2 khoản 3 Điều 51 BLTTHS  như sau:
- Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến xét hỏi những người TGTT nếu được chủ tọa phiên tòa cho phép, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
+ Khoản 3: Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH qui định tại Điều 105 Bộ luật này thì NBH hoặc đại diện hợp pháp của họ đưa ra lời cáo buộc trước khi thủ tục xét hỏi bắt đầu, xét hỏi những người TGTT”trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
- Bổ sung điểm d, điểm đ, điểm g khoản 2, Điều 52 BLTTHS như sau:
+ Điểm d: Đề nghị hình phạt và mức hình phạt, mức bồi thường và các biện pháp đảm bảo bồi thường.
+ Điểm đ: Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến xét hỏi những người TGTT nếu được phép chủ tọa phiên tòa cho phép, tranh luận tại phiên tòa về phần hình phạt và bồi thường thiệt hại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.
+ Điểm g: Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần hình phạt và bồi thường thiệt hại.
- Bổ sung điểm đ, điểm g Điều 53 tranh luận như sau:
+ Điểm đ: Tham gia phiên tòa, trình bày ký kiến xét hỏi những người TGTT nếu được chủ tọa phiên tòa cho phép, tranh luận tại phiên tòa về phần hình phạt và bồi thường thiệt hại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.
+ Điểm g: Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần hình phạt và phần bồi thường thiệt hại.
- Sửa đổi, bổ sung đoạn 3 khoản 1, khoản 3 Điều 104 tranh luận như sau:
+ Đoạn 3 khoản 1: HĐXX yêu cầu cơ quan điều tra hay VKS khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
+ Khoản 3: Bỏ cụm từquyết định khởi tố của HĐXX phải được gửi tới VKS để xem xét, quyết định việc điều tra và bổ sung cụm từ yêu cầu khởi tố của HĐXX được giữ cho cơ quan điều tra hoặc VKS để xem xét, quyết định việc khởi tố.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 105 BLTTHS như sau: Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước khi HĐXX nghị án tạiphiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
- Sửa đổi Điều 109 BLTTHS như sau: Bỏ khoản 3 của điều luật.
- Sửa đổi, bổ sung đoạn 1 khoản 1, Điều 179 BLTTHS như sau: Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ thục tố tụng cản trở đến việc xét xử của Tòa án mà các bên tranh tụng và những người TGTT khác không thể khắc phục được tại thủ tục chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa.
- Sửa đổi, bổ sung Điều 195 BLTTHS như sau: Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, KSV có thể rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn. Nếu KSV rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì HĐXX tiến hành xét xử phần còn lại của quyết định truy tố hoặc xét xử theo tội nhẹ hơn mà KSV kết luận, nếu KSV rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH, nếu KSV rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn nhưng NBH hoặc người đại diện hợp pháp của họ không đồng ý thì HĐXX vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 196 BLTTHS như sau:
+ Khoản 1: Tòa án chỉ xét xử bị cáo trong phạm vi quyết định truy tố của VKS”.
+ Khoản 2: Tòa án có thể xét xử bị cáo khác với nội dung quyết định truy tố của VKS.
- Bổ sung khoản 2 Điều 199 BLTTHS như sau: Quyết định về việc thay đổi thành viên của HĐXX, KSV, Thư ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung thuộc trường hợp qui định tại Điều 179 của Bộ luật này, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản.
- Bổ sung Điều 206 BLTTHS như sau: Trước khi tiến hành xét hỏi, KSV đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung, nếu có. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH thì NBH hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền trình bày lời cáo buộc của mình trước khi KSV đọc bản cáo trạng.
- Sửa đổi, bổ sung Điều 207 BLTTHS như sau:
+ Khoản 1: Chủ tọa phiên tòa điều khiển quá trình xét hỏi, tạo điều kiện cho các bên tranh tụng và những người tham gia xét hỏi xác định sự kiện, các tình tiết của vụ án được bình đẳng khách quan. Chủ tọa phiên tòa có thể thay đổi trình tự xét hỏi theo thứ tự hợp lý, yêu cầu những người đã tham gia xét hỏi tiến hành hỏi lại những vấn đề mà HĐXX chưa rõ, cho phép những người bị hỏi không phải trả lời những câu hỏi mang tính ép cung, mớm cung, dụ cung và những câu hỏi vi phạm đạo đức, không liên quan đến vụ án, ảnh hưởng bí mật đời tư và thuần phong mỹ tục.
+ Khoản 2: Về trình tự xét hỏi, bên buộc tội tham gia hỏi trước tiên; tiếp theo là bên bào chữa; sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ; HĐXX tham gia hỏi cuối cùng và những câu hỏi của HĐXX chỉ mang tính thủ tục.
Đối với bên buộc tội, tham gia hỏi trước tiên là KSV; tiếp theo là NBH, đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ; sau đó là NĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH thì NBH, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ tham gia hỏi trước VKS.
Đối với bên bào chữa, tham gia hỏi trước tiên là bị cáo; tiếp theo là NBC; sau đó là BĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ”.
Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi những vấn đề có liên quan đến giám định.
+ Khoản 3: Khi xét hỏi, HĐXX và những người tham gia phiên tòa có thể xem xét những vật chứng có liên  quan trong vụ án.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 208 BLTTHS như sau: Nừu người được hỏi có mặt tại phiên tòa thì KSV, NBC và người bảo vệ quyền lợi của đương sự không được nhắc lại hoặc công bố lời khai của họ tại cơ quan điều tra trước khi họ khai tại phiên tòa về những tình tiết của vụ án.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 212 BLTTHS như sau: KSV, NBC và những người khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày nhận xét của mình về vật chứng. Các bên tranh tụng và những người tham gia xét hỏi, có thể hỏi thêm về những vấn đề có liên quan đến vật chứng.
- Sửa đổi, bổ sung đoạn 2 Điều 213 BLTTHS như sau: Các bên tranh tụng và những người tham gia xét hỏi có thể hỏi thêm những người tham gia phiên tòa về những vấn đề liên quan đến nơi đó.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2 Điều 217 BLTTHS như sau:
+ Khoản 1: Chủ tọa phiên tòa điều khiển quá trình phát biểu khi tranh luận, tạo điều kiện cho các bên tranh tụng và những người khác tham gia phát biểu khi tranh luận được bình đẳng, khách quan. Chủ tọa phiên tòa có thể thay đổi trình tự phát biểu khi tranh luận theo thứ tự hợp lý, yêu cầu những người phát biểu tiến hành phát biểu lại những vấn đề mà HĐXX chưa rõ.
+ Khoản 2: Về trình tự phát biểu khi tranh luận, bên buộc tội tham gia phát biểu trước rồi đến bào chữa, trong mọi trường hợp thì bên buộc tội phát biểu đầu tiên và bên bào chữa phát biểu cuối cùng. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ phát biểu sau khi bên buộc tội và bên bào chữa đã phát biểu.
Đối với bên buộc tội; tham gia phát biểu trước tiên là KSV; tiếp theo là NBH, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ; sau đó là NĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH thì NBH, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ tham gia phát biểu trước KSV.
Đối với bên bào chữa tham gia phát biểu trước tiên là bị cáo; tiếp theo NBC, sau đó là BĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ.
+ Khoản 3: KSV trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu xét thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội. Luận tội của KSVphải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được các bên tranh tụng và những người tham gia xét hỏi kiểm tra công khai tại phiên tòa.
NBH, đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ; NĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ trình bày những vấn đề liên quan đến việc buộc tội, yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại và các vấn đề khác để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Bị cáo, NBC, BĐDS, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ trình bày những vấn đề liên quan đến việc bào chữa, ý kiến về phần bồi thường thiệt hại và các vấn đề khác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của minh. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền lợi của họ trình bày ý kiến liên quan để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 221 BLTTHS như sau:
+ Khoản 1: Khi KSV rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì trước khi nghị án, HĐXX yêu cầu những người TGTT tại phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn của KSV. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH, nếu NBH hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn của KSVthì HĐXX thực hiện theo khoản 2 và khoản 3 của điều luật này, nếu NBH hoặc người đại diện hợp pháp của họ không đồng ý với việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn của KSV thì HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án.
+ Khoản 2: Khi KSV rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì HĐXX tiến hành xét xử phần còn lại của quyết định truy tố hoặc xét xử theo tội nhẹ hơn mà KSV kết luận.
+ Khoản 3: Trong trường hợp KSV rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX tuyên  bố bị cáo không phạm tội.






















PHẦN KẾT LUẬN
Cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là mục tiêu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang ra sức thực hiện. Việc thực hiện chuyên đề “Tranh tụng tại phiên tòa HSST theo qui định của pháp luật TTHS Việt Nam” cũng không nằm ngoài mục đích đó. Đây là một chuyên đề khó, phức tạp, liên quan nhiều đến lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật. Với khả năng nghiên cứu còn hạn chế và trong phạm vi một chuyên đề thì chưa thể đề cập hết tất cả các khía cạnh, chưa đáp ứng hết yêu càu về nghiên cứu khoa học, song chúng tôi thấy cũng đã đạt được một số kết quả rất khiêm tốn sau:
- Tranh tụng trong TTHS được hiểu theo ba nghĩa: Qúa trình tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng và mô hình tranh tụng. Tranh tụng là quá trình tồn tại, vận động và đấu tranh nhằm phủ định lẫn nhau giữa chức năng buộc tội và chức năng bào chữa. Qúa trình này là một qui luật khách quan và đây chính là nguyên tắc cơ bản của TTHS.
Tranh tụng còn là một hình thức (mô hình) tố tụng mà ở đó có sự thừa nhận nguyên tắc tranh tụng như là một nguyên tắc cơ bản của hoạt động TTHS xuyên suốt các giai đoạn của nó, các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng bình đẳng với nhau, được tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện chức năng tương ứng của mình nhằm đạt được mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra.
- Tranh tụng được thực hiện từ giai đoạn điều tra, đến truy tố và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nhưng rõ nét nhất là tại phiên tòa HSST. Thời điểm bắt đầu quá trình tranh tụng là thời điểm khởi tố bị can và thời điểm kết thúc quá trình tranh tụng là thời điểm kết thúc thủ tục tranh luận tại phiên tòa HSST. Trong một số trường hợp đặc biệt thì thời điểm bắt đầu và kết thúc quá trình tranh tụng có thể sớm hơn.
- Tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của TTHS và cần được ghi nhận nguyên tắc này như một nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS Việt Nam. Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi phải có sự tách bạch giữa các chức năng cơ bản của TTHS (buộc tội, bào chữa và xét xử), phải có sự kết hợp giữa tính tích cực của các bên với vai trò lãnh đạo của Tòa án và phải có sự bình đẳng giữa các bên trong tiến trình tố tụng.
- Tranh tụng và tranh luận là không đồng nhất với nhau. Tranh tụng là một quá trình đối trọng nhằm phủ định lẫn nhau giữa chức năng buộc tội và chức năng bào chữa. Còn tranh luận là một thủ tục độc lập của phiên tòa HSST. Tranh luận có nội hàm hẹp hơn tranh tụng, là một phần của quá trình tranh tụng, là sự thể hiện tập trung nhất, là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng. Khi chức năng buộc tội xuất hiện thì kéo theo sự xuất hiện của chức năng bào chữa và đây là thời điểm bắt đầu của quá trình tranh tụng. Qúa trình tố tụng lúc này mang tính tranh tụng, trải qua nhiều giai đoạn với các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có phiên tòa HSST và trong phiên tòa HSST có thủ tục tranh luận tại phiên tòa.
- Xét xử sớ thẩm là giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự Việt Nam. Giai đoạn xét xử sơ thẩm gồm có hai phần: Chuẩn bị xét xử và phiên tòa HSST. Phiên tòa sơ thẩm là hình thức đặc trưng của giai đoạn xét xử sơ thẩm. Bản chất của phiên tòa HSST chính là hình thức thể hiện chức năng xét xử của Tòa án, là hoạt động áp dụng pháp luật vào thực tiễn, áp dụng những qui định của pháp luật hình sự và TTHS vào các sự kiện pháp lý cụ thể trong vụ án hình sự. Nội dung của phiên tòa HSST là những điều kiện chung và thủ tục của phiên tòa.
- Tòa án không phải là một trong các bên tranh tụng mà là chủ thể lãnh đạo, điều khiển và người trọng tài khách quan trong quá trình tranh tụng.
- Chúng tôi đã đưa ra một số kiến nghị mang tính định hướng; kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số qui định của pháp luật thực định nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa HSST.

Comments

Popular posts from this blog

[Hack crack] Tổng hợp Google Dork

[Security] Internet blackout scheduled in protest of SOPA