Chứng cứ trong hoạt động của Cơ quan điều tra


Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, chứng cứ giữa vị trí cả vai trò đặc biệt quan trọng. Các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải dựa vào chứng cứ để quyết định có áp dụng các biện pháp mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định không và để kết luận, xử lý vụ án được đúng đắn.
Muốn làm rõ bản chất vụ án hình sự, trong giai đoạn điều tra hình sự, cơ quan Điều tra cần phải tiến hành chứng minh vụ án hình sự theo một quá trình nhất định. Quá trình chứng minh cũng là quá trình nhận thức sự thật khách quan về những vấn đề cần tìm hiểu đối với sự án hình sự.
Quán triệt phương pháp chứng minh khoa học theo biện chứng duy vật, khi tiến hành chứng minh vụ án hình sự, cơ quan Điều tra phải tiến hành qua các bước sau đây:
1. Phát hiện, thu thập, củng cố, bảo vệ chứng cứ.
- Phát hiện, thu thập chứng cứ:
Mỗi tội phạm xảy ra bao giờ cũng để lại những dấu vết nhất định. Điều quan trọng là cơ quan Điều tra có quyết tâm, kiên trì tìm hiểu, có xác định đúng nội dung, phương pháp điều tra, có ý thức bảo vệ chứng cứ tốt hay không để đấu tranh chống tội phạm.
Muốn tìm hiểu và làm sáng tỏ vụ án, cơ quan Điều tra phải phát hiện và thu thập đầy đủ chứng cứ. Đây là khâu đầu tiên, rất quan trọng trong quá trình điều tra.
Phát hiện, thu thập chứng cứ là tìm những dấu vết, sự vật, hiện tượng... nói lên diễn biến thực tế của vụ án xảy ra hoặc tìm những nguồn chứng cứ (vật chứng, phát hiện nhân chứng để lấy lời khai của họ...), từ những nguồn đó, ta nghiên cứu, khai thác những chứng cứ có ý nghĩa chứng minh những tình tiết của vụ án; thu giữ hoặc ghi nhận những chứng cứ đó vào báo cáo, biên bản hay các loại văn bản khác theo quy định của pháp luật.
Để việc thu thập chứng cứ được tập trung, tránh tràn lan hoặc bỏ sót, trong quá trình điều tra vụ ván hình sự, cơ quan Điều tra phải luôn bám sát những vấn đề cần được chứng minh trong vụ án hình sự (Điều 47 Bộ luật tố tụng hình sự); phải căn cứ vào tính chất và quy luật hoạt động của đối tượng đang điều tra; căn cứ vào đặc điểm thực tế xảy ra vụ án; từ những chứng cứ, quy luật, dấu vết thu thập được để nghiên cứu xem xét, đề ra phương hướng, kế hoạch thu thập chứng cứ. Quá trình thu thập chứng cứ, cơ quan Điều tra có thể chia từng bước để tiến hành. Trong mỗi bước, phải xuất phát từ thực tiễn để điều chỉnh phương hướng thu thập cho sát.
Quá trình phát hiện, thu thập, phải chọn những vấn đề mấu chốt, trọng tâm, trọng điểm để tập trung lực lượng thu thập và tập trung chỉ đạo. Thực tiễn điều tra cho thấy, nếu làm rõ được những vấn đề mấu chốt, sẽ làm rõ được các tình tiết khác tương đối dễ dàng, tránh được sự bế tắc trong công tác điều tra.
Việc phát hiện, thu thập chứng cứ phải được tiến hành khẩn trương, tỷ mỷ, sâu sắc, phải chú ý đến mọi khía cạnh, tình tiết của vụ án, phải quan tâm đúng mức những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội.
Để phát hiện, thu thập chứng cứ, cơ quan Điều tra áp dụng tổng hợp các biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét thu giữ, tạm giữ vật chứng, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định chuyên môn... Ngoài các biện pháp trên, cơ quan Điều tra còn áp dụng các biện pháp sau đây để phát hiện, thu thập chứng cứ.
+ Thông qua các hoạt động của các cơ quan, tổ chức như: kiểm soát hành chính ở nơi công cộng, kiểm soát các phương tiện giao thông vận tải... hoặc dùng hình thức thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước để phát hiện, thu thập chứng cứ;
+ Công dân tố giác: Căn cứ vào tình hình xảy ra vụ án, xét khả năng hiểu biết của quần chúng, tùy điều kiện cho phép, cơ quan Điều tra có thể phát động cá biệt hoặc phát động một bộ phận công dân để tố giác, cung cấp cho cơ quan điều tra những chứng cứ cần thiết, nhưng không để họ tố cáo cụ thể trước đông đảo quần chúng, mà yêu cầu họ cung cấp tin tức riêng với cơ quan Điều tra, sau đó đi sâu, tìm hiểu cặn kẽ và dùng các biện pháp của tố tụng hình sự để thu thập chứng cứ cho đúng thủ tục pháp luật.
Trong quá trình phát hiện, thu thập chứng cứ, tùy hoàn cảnh cụ thể mà cơ quan Điều tra tính toán áp dụng biện pháp sao cho thích hợp, có lợi nhất; đồng thời phải biết kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp nhằm hỗ trợ nhau thực hiện có kết quả;
- Củng cố chứng cứ: là làm cho chứng cứ thu thập được có đầy đủ giá trị chứng minh và hiệu lực sử dụng. Trong quá trình phát hiện, thu thập, cơ quan Điều tra phải ghi lại thật tỷ mỷ, đầy đủ, chính xác và trung thực những dấu vết, sự việc, hiện tượng... liên quan đến vụ án và cách thu thập nó vào biên bản, báo cáo hoặc các loại văn bản khác để chứng cứ khỏi bị thất lạc, sai lệch sự thật và giữ được lâu dài.
Quá trình phát hiện, thu thập chứng cứ gắn liền với việc củng cố chứng cứ. Song song với các hoạt động điều tra là quá trình hình thành các văn bản pháp lý.
- Bảo vệ chứng cứ: Là giữ cho được tính nguyên vẹn của chứng cứ như khi ta thu được, không làm mất, làm hỏng, làm biến dạng hay sai lệch sự thật, không được lấy cắp, đem theo, đem dùng hay đổi chác, đánh tráo...
Thực chất của việc bảo vệ chứng cứ là bảo vệ tác dụng chứng minh của chứng cứ; bảo vệ phương tiện, công cụ đấu tranh của cơ quan Điều tra. Tất nhiên, cơ quan Điều tra cũng có tính đến việc bảo vệ giá trị vật chất, ý nghĩa kinh tế của bản thân nó. Với những chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, cơ quan Điều tra còn phải có ý thức bảo quản chứng cứ lâu dài, vì những chứng cứ đó không chỉ có tác dụng đấu tranh trước mắt mà còn có tác dụng đấu tranh lâu dài.
Riêng đối với vật chứng, việc phát hiện, thu thập, củng cố, bảo vệ và bảo quản phải theo đúng quy định tại Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tóm lại, để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, phải chứng minh có hay không có tội phạm xảy ra và nếu có tội phạm xảy ra thì người thực hiện tội phạm là ai? Cơ quan Điều tra phải phát hiện, thu thập được chứng cứ. Khi đã phát hiện, thu thập được chứng cứ phải củng cố, bảo vệ cho tốt. Củng cố chứng cứ vững chắc sẽ giúp cho việc bảo vệ nó được lâu dài, bảo đảm việc sử dụng chứng cứ có kết quả, làm cho chứng cứ có hiệu lực chứng minh cao.
2. Kiểm tra chứng cứ.
Chứng cứ tồn tại khách quan và thể hiện rất sinh động, đa dạng. Trong khi đó, nhận thức của mỗi người lại có sự khác nhau. Mặt khác, thực tiễn đấu tranh chống tội phạm cho thấy, bọn tội phạm luôn che giấu hành vi phạm tội, trốn tránh pháp luật, tìm mọi cách để đánh lạc hướng điều tra. Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng sự thật khách quan trong điều tra hình sự, xuất phát từ tính phức tạp và hệ trọng của công tác điều tra hình sự, việc kiểm tra lại chứng cứ nhằm xác định tính xác thực của chứng cứ trước khi sử dụng có ý nghĩa quan trọng và có tính nguyên tắc. Nếu không kiểm tra thận trọng, vội tin, vội sử dụng sẽ dẫn đến mắc sai lầm, dẫn đến oan sai, để lọt kẻ phạm tội trong quá trình điều tra.
Khi tiến hành kiểm tra chứng cứ, cơ quan Điều tra thường quan tâm chú ý đến những vấn đề sau đây:
- Cần đặc biệt chú ý đến việc kiểm tra các thuộc tính của chứng cứ, phải xem xét chứng cứ đã thu thập được có đúng với sự thật khách quan không? Có liên quan gì đến những vấn đề cần phải chứng minh, nguồn phản ánh và biện pháp thu thập có đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự không?...
Mỗi loại chứng cứ có những đặc điểm riêng của nó. Khi kiểm tra chứng cứ phải đi sâu vào đặc điểm của từng loại chứng cứ mà xem xét.
+ Đối với lời khai của người làm chứng, người bị hại: Phải kiểm tra tính xác thực về lời khai của họ và những yếu tố ảnh hưởng đến lời khai của họ. Phải yêu cầu họ nói rõ vì sao họ biết được sự việc đó.
+ Đối với lời khai của người bị tạm giữ, của bị can: Không vội tin hay hoài nghi một cách vô căn cứ. Diễn biến tâm lý của những người này phức tạp, nên việc xác định tính xác thực về lời khai của họ cũng khó khăn. Do đó, chỉ được tin lời khai của họ sau khi đã được các chứng cứ khác trong vụ án chứng minh là đúng. Khoản 2 Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định: “Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án”.
+ Đối với kết luận của Giám định viên: Phải xem xét kỹ các vấn đề như mức độ chính xác của các tài liệu gửi giám định, sự vô tư của Giám định viên, năng lực và thẩm quyền để giám định, điều kiện để giám định, thủ tục giám định và kết luận giám định có chính xác không, khoa học không. Trong trường hợp có quan Điều tra không đồng ý kiến với kết luận giám định thì phải nêu rõ lý do, nếu thấy kết luận chưa rõ hoặc chưa đầy đủ thì quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại theo thủ tục chung được quy định tại các Điều 55, Điều 132 và Điều 134 Bộ luật tố tụng hình sự.
+ Đối với phim, ảnh, bản photocopy do cơ quan Điều tra thu được: Phải xem xét điều kiện, hoàn cảnh thu, phương tiện sử dụng vào việc thu, chụp, trình độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm của người tiến hành thu chụp.
+ Đối với vật chứng: Phải xem xét, kiểm tra vật đó là thật hay giả, các đặc điểm, dấu vết riêng trên vật chứng có còn nguyên vẹn hay đã bị hư hỏng, biến dạng, nguyên nhân tìm ra vật đó, vật đó đã được mô tả đúng thực trạng trong biên bản hoặc ảnh chụp chưa?...
+ Đối với biên bản: Phải xem xét nội dung những sự việc ghi lại, tả lại có đúng với thực tế khách quan, có đầy đủ, tỷ mỷ, chặt chẽ không? Vấn đề gì còn chưa rõ, còn mâu thuẫn, đây là bản chính hay bản sao? Nếu là bản sao thì có đúng với bản chính không? Về thủ tục pháp lý, các biên bản đó có đúng với quy định tại Điều 78 của Bộ luật tố tụng hình sự những chứng cứ đã thu thập được không?
Khi kiểm tra chứng cứ, có trường hợp cần dùng một trong 3 cách trên, có trường hợp phải kết hợp cả 2 hoặc 3 cách mới làm rõ được tính xác thực của chứng cứ.
Việc kiểm tra chứng cứ phải được tiến hành thường xuyên trong suốt quá trình điều tra vụ án. Ngay khi thu thập chứng cứ cũng đã phải kiểm tra chứng cứ.
3- Đánh giá chứng cứ.
Sau khi đã kiểm tra chứng cứ, Điều tra viên được phân công điều tra vụ án phải đánh giá chứng cứ, tức là phải nhận định, kết luận về tính chính xác và giá trị chứng minh của chứng cứ. Từ các chứng cứ đó đi đến kết luận chính xác về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án đang điều tra.
Việc đánh giá chứng cứ cũng rất phức tạp, nhiều khi cùng một chứng cứ nhưng ý kiến đánh giá lại khác nhau. Vì vậy, khi đánh giá chứng cứ, đòi hỏi phải thận trọng, trung thực, nắm vững và vận dụng tốt khoa học về chứng cứ. Khi đánh giá chứng cứ, cơ quan Điều tra dựa vào những căn cứ sau đây:
- Dựa vào những quy định của Bộ luật hình sự: Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, cơ quan Điều tra phải xác định hành vi xảy ra có phải là hành vi phạm tội không; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; những tình tiết cho phép miễn trách nhiệm hình sự... Muốn vậy, phải dựa vào những quy định của luật hình sự về tội phạm.
- Dựa vào những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định: “Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án.
- Dựa vào niềm tin nội tâm của Điều tra viên: Niềm tin nội tâm của là kết quả hoạt động lý trí, đạo đức và toàn bộ tính cách của con người cùng những tri thức, kinh nghiệm đã tích lũy được của Điều tra viên. Niềm tin nội tâm không chỉ là nhận thức về sự việc, hiện tượng và diễn biến của các hiện tượng đó như thế nào, do đâu xảy ra, mà còn là năng lực nhận định, đánh giá chính xác bản chất các hiện tượng đó và lòng dũng cảm bảo vệ chân lý.
- Dựa vào ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa: Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa bao gồm các quan niệm về những nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa, các tri thức về pháp luật hiện hành, thái độ tâm lý của con người đối với pháp luật, thể hiện sự công minh, bình đẳng trước pháp luật...
Toàn bộ những hiểu biết về pháp luật và thái độ đối với pháp luật tạo thành ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đánh giá chứng cứ dựa trên cơ sở ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa có tác dụng làm cho Điều tra viên nhận thức rõ hơn ý nghĩa pháp lý của việc mình đang làm, tạo điều kiện cho việc xác định sự thật khách quan và đánh giá hành vi phạm tội xảy ra chính xác.
Các căn cứ đánh giá chứng cứ có liên quan với nhau. Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng đối với sự hình thành và củng cố niềm tin nội tâm của các chủ thể (Điều tra viên) đánh giá chứng cứ. Khi đánh giá chứng cứ, nếu Điều tra viên có những kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn càng nhiều, càng sâu bao nhiêu thì việc đánh giá chứng cứ càng chính xác bấy nhiêu.
Để đánh giá chứng cứ, cần đánh giá từng chứng cứ, đồng thời phải đánh giá tổng hợp toàn bộ chứng cứ. Trên cơ sở đánh giá từng chứng cứ mới đánh giá tổng hợp toàn bộ chứng cứ. Mặt khác phải dựa trên cơ sở toàn bộ chứng cứ để xem xét từng chứng cứ riêng lẻ mới thấy hết được giá trị của từng chứng cứ.
- Đánh giá từng chứng cứ là đưa ra kết luận về mức độ chính xác và giá trị chứng minh của từng chứng cứ. Những chứng cứ thu được không phải đều có giá trị chứng minh và mức độ chính xác như nhau, nếu đánh giá quá thấp hoặc quá cao so với khả năng thực tế chứng minh của nó sẽ dẫn đến sai lầm, ảnh hưởng không tốt đến việc xác định phương hướng điều tra, đến việc nhận định, kết luận vụ án.
Muốn đánh giá từng chứng cứ được đúng, phải nắm vững đặc điểm của từng loại chứng cứ, phải dựa vào kiến thức tổng hợp của bản thân để xem xét những cái có thật đó có phù hợp với quy luật khách quan của sự vật không, từ đó rút ra kết luận về giá trị và mức độ chính xác của nó. Khi đánh giá từng chứng cứ, cần nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa chứng cứ với những vấn đề cần chứng minh trong vụ án, xem nó có thể giúp ta làm sáng tỏ được vấn đề gì, mức độ đến đâu. Trên cơ sở đó, rút ra kết luận về mức độ và giá trị chứng minh của chứng cứ. Từng chứng cứ thu thập, kiểm tra đến đâu đánh giá đến đấy.
Sau khi kiểm tra, đánh giá từng chứng cứ, nếu thấy đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ thì mới sử dụng để chứng minh. Nếu chứng cứ không chính xác, không vững chắc hoặc không có liên quan đến những vấn đề cần chứng minh thì loại bỏ. Trường hợp chứng cứ chưa thật hoàn chỉnh thì không nên sử dụng mà cần phải tiếp tục xác minh cẩn thận các thuộc tính của nó.
- Đánh giá tổng hợp toàn bộ chứng cứ là xác định giá trị chứng minh của tất cả chứng cứ và có kết luận chính xác về vụ án. Thực tế cho thấy, nếu chỉ dừng lại ở việc đánh giá từng chứng cứ thì nhiều khi chưa thấy hết được giá trị chứng minh của chứng cứ, nhất là những chứng cứ gián tiếp, đồng thời cũng chưa thể nhận thức được rõ bản chất của vụ án. Vì vậy, phải đánh giá tổng hợp chứng cứ, đặt các chứng cứ trong mối liên quan chặt chẽ với nhau, nhằm xác định giá trị chứng minh của tất cả các chứng cứ và có kết luận chính xác về vụ án. Khi đánh giá tổng hợp hoàn bộ chứng cứ, phải dựa vào những chứng cứ đã được kiểm tra riêng lẻ; các căn cứ đánh giá chứng cứ; quy luật diễn biến khách quan của sự vật; kiến thức nghiệp vụ và kinh nghiệm bản thân trong công tác đấu tranh chống tội phạm.
Khi đánh giá tổng hợp chứng cứ, phải lấy thực tế khách quan làm tiêu chuẩn, không được đánh giá chứng cứ theo quan điểm hình thức (tức là xác định trước giá trị chứng minh cho từng loại chứng cứ). Việc đánh giá chứng cứ, kết luận về vụ án đúng hay sai đều có ảnh hưởng đến chủ trương, biện pháp giải quyết vụ án. Vì vậy, phải hết sức thận trọng và đề cao tinh thần trách nhiệm khi đánh giá chứng cứ.
Trong hoạt động điều tra của mình, các cơ quan Điều tra phải tiến hành các hoạt động phát hiện, thu thập, củng cố, bảo vệ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Các hoạt động này có quan hệ chặt chẽ với nhau, đan xen vào nhau, làm tốt việc thu thập, kiểm tra chứng cứ sẽ giúp cho việc đánh giá chứng cứ, kết luận vụ án hình sự được đúng đắn./.

Comments

Popular posts from this blog

[Hack crack] Tổng hợp Google Dork

[Security] Internet blackout scheduled in protest of SOPA