[Tài liệu] Đổi mới và hoàn thiện Tố tụng hình sự Việt Nam 2003

Một bài viết của GS.TS Đào Trí Úc
mời các bạn tham khảo:

Bất kỳ một hệ thống tố tụng hình sự (TTHS) nào, trong đó có TTHS Việt Nam cũng bao gồm những yếu tố chủ đạo sau: mục đích của TTHS; các nguyên tắc cơ bản của TTHS; các chức năng chủ yếu trong TTHS; vị trí pháp lý của các chủ thể hoạt động TTHS và quan hệ giữa các chủ thể đó trong TTHS; các giai đoạn TTHS; phương thức đạt được mục đích của TTTHS hay vấn đề chứng cứ và chứng minh trong TTHS. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu định hướng đổi mới và hoàn thiện TTHS Việt Nam cần phải quan tâm đến các yếu tố chủ đạo nói trên của TTHS.
1. Mục đích của tố tụng hình sự Việt Nam
Trong các yếu tố của TTHS, mục đích là yếu tố quan trọng nhất, chi phối các yếu tố khác. Mục đích sẽ đặt ra những yêu cầu đòi hỏi cho các hoạt động TTHS, tức là các nguyên tắc của TTHS. Đến lượt chúng, cùng với mục đích, các nguyên tắc của TTHS là điểm xuất phát để xác định chức năng, vị trí và các mối quan hệ giữa các chủ thể TTHS, phương thức của việc bảo đảm chứng cứ và của quá trình chứng minh trong vụ án hình sự.
TTHS Việt Nam có mục đích “phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” và “bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” (Điều 1 Bộ luật TTHS năm 2003).
Quy định trên đây của Bộ luật TTHS đã xác định hai nhóm mục đích của TTHS: nhóm các mục đích cụ thể, trực tiếp và nhóm các mục đích chung, gián tiếp. “Ngăn chặn tội phạm”, “phát hiện chính xác và nhanh chóng tội phạm”; “xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội”, “không để lọt tội phạm”, “không làm oan người vô tội” là những mục đích thuộc nhóm thứ nhất. Nhóm các mục đích thứ hai gồm: “phòng ngừa tội phạm”, “bảo vệ chế độ XHCN”, “bảo vệ lợi ích của Nhà nước”, “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức”, “bảo vệ trật tự pháp luật XHCN”, “giáo dục ý thức pháp luật”.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, các mục đích chung hay cụ thể, gần hay xa được nêu trên đây của TTHS Việt Nam đều nhất quán ở một định hướng về ưu thế vượt trội của Nhà nước mà người đại diện là những cơ quan, cá nhân được pháp luật TTHS xác định là “cơ quan tiến hành tố tụng” (CQTHTT) và “người tiến hành tố tụng” (NTHTT). Những khái niệm này cũng đủ để nói lên vị thế đó của các cơ quan công quyền. Tại Điều 10 của Bộ luật TTHS, các mục đích nêu trên đã được cụ thể hóa hơn nữa thông qua việc quy định trách nhiệm của các CQTHTT phải “xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”, trong đó có trách nhiệm “làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”. Một lần nữa, trách nhiệm đó chỉ thuộc về Nhà nước.
Để làm rõ tính chất và đặc điểm của TTHS Việt Nam thông qua phạm trù “mục đích” của TTHS, có lẽ cần lấy thêm một yếu tố khác là thực chất của TTHS, nói khác đi, cần bắt đầu từ câu hỏi: vì sao cần đến TTHS? hoặc “từ khi nào nảy sinh một vụ án hình sự và nó phải kết thúc khi nào, bằng cách nào?”.
Nếu nhìn nhận TTHS từ góc độ một vụ kiện thì sẽ thấy TTHS thực chất là sự tranh chấp hình sự về vấn đề có tội hay vô tội, tội nặng hay nhẹ giữa Nhà nước - người đưa ra điều cấm và bị can, bị cáo - người bị coi là vi phạm điều cấm đó. Lịch sử của nhân loại đã chứng kiến nhiều kiểu giải quyết tranh chấp hình sự bằng những cách không dính dáng gì đến tố tụng như đền nợ máu, hòa giải các bên trong vụ kiện, kiểu hành xử của chủ nô đối với nô lệ, chặt chân tay kẻ trộm, cạo trọc bôi vôi với kẻ chửa hoang… Khi con người đã trở nên văn minh hơn, tranh chấp hình sự đã được giải quyết bằng con đường tố tụng và vì vậy, phương thức giải quyết phải có điểm dừng nhất định. Điểm dừng thứ nhất: hoặc là các bên tìm ra giải pháp chung và đều thỏa mãn với nó, hoặc là bên này thừa nhận đòi hỏi của bên kia. Điểm dừng thứ hai: đó là việc tìm ra sự thật đã xảy ra, các bên buộc phải tìm ra sự thật của vụ án. TTHS Việt Nam chọn con đường thứ hai.
Trong trường hợp một vụ án hình sự, tìm ra sự thật thực chất chỉ là khôi phục lại, tạo dựng lại những gì đã xảy ra trong quá khứ. Đó chính là một quá trình nhận thức, mà nhận thức phải có khách thể nhận thức (nhận thức cái gì) và chủ thể nhận thức (ai nhận thức). Nội dung nhận thức bao gồm sự lĩnh hội của chủ thể về khách thể bằng con đường nhận biết, rồi qua tư duy, và cuối cùng là kiểm tra cảm nhận và tư duy đó trong thực tiễn theo logic: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”1. Trong khi đó, TTHS lại cho thấy một tính đặc thù của quá trình nói trên: đó là sự nhận thức những sự việc đã xảy ra. CQTHTT và NTHTT với tư cách là chủ thể nhận thức ở đây không có được khả năng của một chủ thể nhận thức như công thức nêu trên. Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên không thể đồng thời là người chứng kiến những gì đã xảy ra để có được cảm nhận “trực quan sinh động” của mình. Nhưng họ lại là người có nhiệm vụ thể hiện “tư duy trừu tượng” của mình rồi ra kết luận về vụ án. Về mặt thực tế, họ có thể là người chứng kiến, nhưng về mặt pháp lý nếu như vậy thì họ bị cấm trở thành NTHTT khi họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Khoản 1 Điều 42 Bộ luật TTHS). Mặc dù có những hạn chế của các CQTHTT, những NTHTT trong quá trình nhận thức sự thật khách quan nhưng họ lại được quyền chủ động điều tra, truy tố và xét xử vụ án. Điều đáng nói ở đây không phải là vấn đề giao hay không giao cho các cơ quan tố tụng, NTHTT quyền đi tìm sự thật khách quan, vì như đã nói ở trên, một khi có người gây ra hành vi phạm tội và có người bị hại thì nếu không có người thứ ba công minh, chân lý thường thuộc về kẻ mạnh. Đó chính là lý do sinh ra TTHS với sự xuất hiện của người thứ ba công minh là Cơ quan điều tra, Công tố và đặc biệt là Tòa án - người phán quyết cuối cùng về vụ án. Vấn đề cần bàn ở chỗ, làm thế nào để chân lý được sáng tỏ trên tinh thần công bằng, không có độc quyền chân lý vì đó là mầm mống của một nửa chân lý hoặc là chân lý ngụy tạo. Nói khác đi, cần có một bảo đảm để vừa đạt được sự thật, vừa để không có được cái không phải là sự thật.
Những điều vừa trình bày trên đây cho thấy hai vấn đề cần được nghiên cứu:
Thứ nhất, những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành đang ở trạng thái tạo ra sự chủ quan cho chủ thể đi tìm sự thật của vụ án hình sự. Mặc dù pháp luật có xác định phải xử lý công minh, không làm oan người vô tội, nhưng đứng ở vị thế độc quyền chân lý, sự chủ quan là không tránh khỏi.
Thứ hai, các mục đích được đặt ra cho TTHS (thực chất là mục đích hoạt động của các CQTHTT) nặng về bảo vệ lợi ích công và coi nhẹ lợi ích của cá nhân những con người cụ thể trong vụ án hình sự. Bộ luật TTHS chỉ nhắc đến mục đích “bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” một cách chung chung mà không chỉ rõ là bảo vệ quyền và lợi ích của những người ở vào vị thế bị động và yếu hơn so với bộ máy công quyền hiện diện trong TTHS, vả lại, họ cũng chỉ được nhắc đến sau cùng. Vì vậy, ai sẽ là người quan tân nhiều hơn đến họ: luật sư? bản thân những cá nhân đó (bị can, bị cáo, bị đơn dân sự)? Chắc chắn là như vậy! Thế nhưng, những người này không có quyền chủ động trong tiến trình TTHS, họ được xếp vào thể loại “người tham gia tố tụng” (NTGTT) vì đúng là tố tụng này không phải của họ! Mặt khác, giả sử họ là chủ thể đi tìm sự thật thì liệu họ có đi tìm và tìm ra những gì chống lại họ (nếu là bị can, bị cáo), hay thân chủ của họ (nếu là luật sư)? Trong trường hợp này, mục đích hợp pháp của những chủ thể này chỉ có thể là đi tìm những gì chống lại cái không phải là sự thật đang có nguy cơ được thừa nhận là sự thật. Muốn vậy, cần tạo cho bị can, bị cáo, người bào chữa của họ có được khả năng và vị thế ngang với khả năng và vị thế của các CQTHTT, NTHTT trong việc đi tìm sự thật cũng như chống lại những gì phi sự thật, phản sự thật. Cách duy nhất để thỏa mãn được yêu cầu đó là đổi mới cách nhìn về mục đích của TTHS theo hướng bình đẳng đối với các giá trị, lợi ích cần đạt được của TTHS, lợi ích của trật tự pháp luật và lợi ích của cá nhân những con người nằm trong vòng tố tụng. Từ đó, hai mục đích khác nhau của TTHS cần được đặt ở vị trí ngang bằng nhau là: 1) xác định sự thật của vụ án và 2) loại trừ những gì không phải là sự thật trong vụ án. Với logic đó, việc xác định mục đích của TTHS cần được thực hiện theo hướng bảo đảm lợi ích của trật tự pháp luật và đồng thời bảo đảm đầy đủ lợi ích, quyền và tự do của công dân.
2. Các nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam
 Trong TTHS Việt Nam, nguyên tắc của TTHS là những tư tưởng và quan điểm chủ đạo được thể chế hóa bằng pháp luật, có ý nghĩa quyết định đối với việc xác định và thực hiện các hoạt động TTHS và các quan hệ TTHS đối với các hình thức và phương pháp thực hiện những hoạt động và quan hệ đó.
Nguyên tắc của TTHS gắn liền với nhiệm vụ, mục đích của TTHS và do vậy, tuân thủ các nguyên tắc của TTHS là bảo đảm quan trọng hàng đầu cho việc thực hiện có hiệu quả mục đích và nhiệm vụ của TTHS.
Nguyên tắc của TTHS là cái có trước mô hình cấu trúc của TTHS và có trước cả các quy định của pháp luật TTHS. Nguyên tắc không phải là pháp luật thực định mà là những đòi hỏi pháp lý có tính khái quát cao, mang màu sắc lý tưởng, là những yêu cầu, đòi hỏi, là cái cần có. Trong khi đó, pháp luật TTHS là cái tồn tại. Cái tồn tại phải được cải biến cho phù hợp với yêu cầu của cái cần có, nhưng trong hiện thực luôn luôn có một khoảng cách giữa hai phạm trù đó. Có thể lấy ví dụ về nguyên tắc tranh tụng trong cải cách tư pháp hình sự hiện nay ở Việt Nam theo tinh thần của Chiến lược cải cách tư pháp. Thực hiện tranh tụng trong TTHS là yêu cầu được đặt ra trong Chiến lược, nhưng yếu tố tranh tụng có được bao nhiêu trong cả hệ thống TTHS, được phản ánh như thế nào trong các chế định và quy phạm của pháp luật TTHS lại là một vấn đề khác. Tuy nhiên, tư tưởng về việc thực hiện tranh tụng luôn luôn là cơ sở, là thước đo cho việc đánh giá tính hoàn thiện của các chế định pháp luật và của thực tiễn tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay.
Có thể phân loại các nguyên tắc kể trên theo các nhóm sau: nhóm các nguyên tắc có nội dung liên quan đến yêu cầu về bảo đảm pháp chế XHCN trong TTHS; nhóm các nguyên tắc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và quyền của bị can, bị cáo nói riêng trong quá trình tiến hành TTHS; nhóm các nguyên tắc về tính chất của  hoạt động TTHS; nhóm các nguyên tắc về sự tham gia của nhân dân và sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước khác đối với hoạt động TTHS.
Có thể thấy, các nguyên tắc của TTHS Việt Nam chứa đựng những tư tưởng chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện cho sự vận dụng chúng trong các hoạt động TTHS. Cơ cấu về số lượng các nguyên tắc của TTHS đã cho thấy sự quan tâm thích đáng của Nhà nước ta đối với yêu cầu tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của con người, của công dân trong quá trình tố tụng (10/31 nguyên tắc). Các nguyên tắc của TTHS hiện hành Việt Nam phản ánh rõ nét tính chất pha trộn của TTHS, trong đó tính chất chủ đạo của nó là tố tụng thẩm vấn với sự tiếp thu một số rất ít các đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng. Có thể nói rằng, đây chính là lĩnh vực của những sự tìm tòi, thể nghiệm vừa nghiêm túc, thận trọng, vừa cầu thị trong quá trình thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới vừa qua.
Trong quá trình tiến hành tố tụng vẫn còn nảy sinh nhiều vướng mắc và bất cập. Có thể nêu hai biểu hiện sau:
Thứ nhất, trong pháp luật TTHS Việt Nam còn thiếu vắng các nguyên tắc quan trọng và phổ biến của TTHS như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng.
Thứ hai, còn có sự quy định tản mạn và trùng lặp về nội dung các nguyên tắc, gây khó khăn cho sự nhận thức mục đích, ý nghĩa, nội dung và cho việc áp dụng các nguyên tắc trong thực tiễn. Do đó, cần phải căn cứ vào nội dung của các quy định để sắp xếp một cách hợp lý.
Có thể thấy rằng, một hệ thống TTHS muốn đạt hiệu quả cao là một hệ thống có khả năng phản ánh và ghi nhận sự giao thoa của các nguyên tắc với sự bắt nhịp nhạy bén với khuynh hướng của nhận thức xã hội tiến bộ, phản ánh tính trội của những nguyên tắc thể hiện bản chất dân chủ và tiến bộ của TTHS hiện đại. Tư tưởng về sự tôn trọng quyền và tự do của các bên, về tranh tụng trong TTHS, nguyên tắc suy đoán vô tội phản ánh sự triệt để tôn trọng quyền con người là những tư tưởng nhân văn lớn và có tính pháp quyền cao phải được coi là những điểm trội trong hệ thống các nguyên tắc của TTHS tiến bộ.
3. Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam
Trong bất kỳ một hệ thống TTHS nào cũng đều tồn tại các nhu cầu được đặt ra bởi tính chất của tố tụng là: truy tố tội phạm và người phạm tội; bào chữa của bị can, bị cáo và luật sư của họ; hoạt động xét xử của tòa án. Từ đó, ba chức năng: buộc tội, bào chữa và xét xử luôn tồn tại trong bất kỳ một loại TTHS nào. Do đó, nói chức năng tố tụng là nói đến những định hướng hoạt động trong quá trình TTHS mà không lẫn lộn với chức năng vốn có của các thiết chế tổ chức.
Như đã nêu ở trên, tâm điểm của TTHS Việt Nam là “xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”. Do đó, toàn bộ cỗ máy các CQTHTT và những NTHTT đều hầu như hoạt động trên cùng một hướng là xác định sự thật của vụ án. Nói khác đi, có một điểm chung quyết định đối với chức năng của các chủ thể TTHS Việt Nam. Điều 10 của Bộ luật TTHS quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”.
Trong TTHS Việt Nam hiện hành không tồn tại việc khu biệt ba chức năng tố tụng cho từng chủ thể tố tụng. Nếu có, thì đó cũng chỉ là sự phân biệt tương đối. Ngoài ra, Điều 13 của Bộ luật TTHS còn quy định rõ: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội”. Theo đó, không chỉ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà Tòa án cũng có chức năng khởi tố vụ án hình sự! Điều này được bổ sung bởi một số quy định khác trong Bộ luật TTHS, chẳng hạn như quy định Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án khi tại phiên tòa, nếu sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn (Điều 195); quy định Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố (Điều 196).
Việc không phân biệt rõ ràng mục đích của các chủ thể tố tụng dẫn đến sự không rõ ràng chức năng của các chủ thể và trong tổng thể, điều đó không tạo ra được động cơ, động lực thúc đẩy hiệu quả của TTHS, nếu xét tiêu chí của hiệu quả là xác định chính xác sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, của công dân.
4. Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam
Theo quy định pháp luật TTHS hiện hành (Điều 10 Bộ luật TTHS), chủ thể có quyền chủ động hoàn toàn trong toàn bộ quá trình tố tụng nói chung và trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ là các CQTHTT.
Bởi vậy, bắt đầu từ khi khởi tố vụ án, cơ quan điều tra “lập ra hồ sơ vụ án hình sự” (Điều 35 Bộ luật TTHS); khi kết thúc điều tra thì hồ sơ được chuyển sang Viện kiểm sát để quyết định truy tố (nếu phát hiện tội phạm và người phạm tội); từ khi có quyết định truy tố của Viện kiểm sát thì hồ sơ đó được chuyển đến Tòa án để xét xử. Và vì mục đích đi tìm sự thật khách quan của vụ án nên việc xét xử của Tòa án cũng là sự tiếp tục điều tra. Như vậy, hồ sơ là căn cứ duy nhất và hợp pháp để xét xử.
Các chứng cứ cũng hoàn toàn thuộc về quyền chủ động của các CQTHTT, bởi “chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án” (Điều 64 Bộ luật TTHS). Trong toàn bộ quá trình của vụ án, các cơ quan nói trên và chỉ các cơ quan đó mới có quyền thu thập chứng cứ thông qua thẩm quyền triệu tập những người biết về vụ án và nghe họ trình bày, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án (Điều 65). Các vật chứng phải được đưa vào hồ sơ vụ án hoặc chụp ảnh, ghi hình để đưa vào hồ sơ vụ án.
Trong khi đó, từ phía khác, người bào chữa chỉ được quyền thu thập các tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án và chúng chỉ có thể là chứng cứ khi được nộp cho các CQTHTT và được các cơ quan này chứng nhận, đưa vào hồ sơ. Hơn thế nữa, mặc dù được quyền “đọc, ghi chép, sao chụp” các tài liệu trong hồ sơ vụ án, nhưng đấy chỉ là những tài liệu liên quan đến việc bào chữa mà không phải là toàn bộ những tài liệu của vụ án. Bị can, bị cáo, người bào chữa được xác định là những người “tham gia” tố tụng; nói khác đi, tố tụng không thuộc quyền của họ, họ chỉ tham gia. Thậm chí, luật sư bào chữa cũng lấy hồ sơ của vụ án làm căn cứ để bào chữa.
Trong TTHS Việt Nam, Tòa án đóng vai trò tích cực trong quá trình xét xử. Tòa án công bố lời khai của người làm chứng vắng mặt; tại phiên tòa - ở phần xét hỏi, Chủ tọa phiên tòa là người hỏi trước bị cáo rồi mới đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Hội đồng xét xử trực tiếp hỏi bị cáo, người làm chứng, yêu cầu sự có mặt và sự giám hộ của cha mẹ của những bị cáo chưa thành niên; thực hiện những biện pháp bảo vệ an toàn cho người làm chứng; thậm chí, Hội đồng xét xử đi cùng Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được hoặc đến nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án v.v.. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, trong quá trình xét hỏi ấy, các chứng cứ được thu thập đầy đủ đến đâu, được đánh giá và phản ánh như thế nào vào biên bản phiên tòa, đóng vai trò đến đâu trong nội dung phát biểu của các chủ thể khác trong việc hình thành quan điểm của họ trong phần tranh luận, cuối cùng là trong phòng nghị án và trong bản án - phần lớn phụ thuộc vào quan điểm, vị trí chủ động tích cực đó của Tòa án. Đương nhiên, với cách thức tố tụng này thì vai trò của Tòa án là rất cần thiết và quan trọng như là vai trò của người dẫn dắt quá trình xét xử.
Các giai đoạn của TTHS Việt Nam có mức độ công khai rất khác nhau. Ở giai đoạn nào cũng có những biểu hiện của đặc trưng chủ đạo của TTHS Việt Nam là quan hệ thiếu bình đẳng, không có đối trọng. Tuy nhiên, biểu hiện rõ nhất là ở giai đoạn điều tra. Thời hạn tạm giam để điều tra được quy định là không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không qua 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Việc tạm giam đó còn có thể được gia hạn tương ứng là một lần không quá một tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, hai lần đối với tội phạm nghiêm trọng theo công thức không quá 02 tháng trong lần thứ nhất, không quá 01 tháng trong lần thứ hai, có nghĩa tối đa là 03 tháng; mức độ tương ứng tiếp theo là 03 tháng + 02 tháng = 05 tháng; 03 lần x 04 tháng = 12 tháng. Nói khác đi, trong một khoảng thời gian dài, bị cáo đã phải đối diện song phương với Điều tra viên và vì vậy, việc bảo đảm quyền và lợi ích của họ, số phận của họ hoàn toàn phụ thuộc vào Điều tra viên, chưa nói đến tính bí mật khép kín của hoạt động điều tra. Giai đoạn được coi là công bằng, công khai nhất là giai đoạn xét xử thì - trừ những vụ án phức tạp, có nhiều bị cáo - thường chỉ diễn ra từ 1 - 2 ngày. Và ở đó, như đã nói ở trên, bị cáo và người bào chữa có vị thế hết sức thụ động với vị thế nổi trội của đại diện Viện kiểm sát và của chính Tòa án.
5. Các giai đoạn trong tố tụng hình sự Việt Nam
TTHS Việt Nam được xác định như một hệ thống các giai đoạn thực hiện các hoạt động của các CQTHTT mà giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn kế sau và giai đoạn kế là hệ quả của giai đoạn trước nó. Theo sơ đồ này, ở Việt Nam đã hình thành một quan điểm chung về các giai đoạn tố tụng gồm: khởi tố, điều tra vụ án hình sự; truy tố; xét xử sơ thẩm; xét xử phúc thẩm; thi hành bản án và quyết định của Tòa án. Tính thống nhất của các giai đoạn TTHS thể hiện ở hai yếu tố: a) tuy tố tụng được chia thành nhiều giai đoạn, nhưng hồ sơ vụ án chỉ có một và được lập từ giai đoạn điều tra vụ án; b) các giai đoạn tố tụng sau nhất thiết phải xảy ra nếu giai đoạn trước đó không bị chấm dứt bởi lý do không xác định được cơ sở của trách nhiệm hình sự.
6. Định hướng đổi mới và hoàn thiện tố tụng hình sự Việt Nam
Mục đích của tố tụng hình sự Việt Nam
TTHS Việt Nam đã có lịch sử phát triển lâu dài, đã hình thành những nhận thức, quan điểm tương đối đồng nhất trong lý luận và thực tiễn về mục đích của nó. Với nhận thức rõ ràng rằng, việc xác định mục đích cần đạt được của TTHS sẽ là điểm mấu chốt cho việc cải tổ hệ thống TTHS, theo chúng tôi, bàn về đổi mới và hoàn thiện TTHS Việt Nam cần bắt đầu từ vấn đề mục đích của TTHS.
Như đã đánh giá ở phần trên, Bộ luật TTHS xác định mục đích của TTHS quá rộng, quá chung, hầu như trùng với mục đích của cả hệ thống tư pháp hình sự. Cần đánh giá lại một cách cụ thể hơn mục đích của TTHS là xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, bảo vệ quyền con người trong các hoạt động tố tụng.
Các nguyên tắc của tố tụng hình sự
Đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và tính pháp quyền của nó, TTHS Việt Nam cần lấy các nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội làm hai nguyên tắc trụ cột. Nguyên tắc tranh tụng dẫn đến sự hình thành các bên trên cơ sở xác định vị trí của các lợi ích tố tụng, từ đó tạo nên sự bình đẳng của các bên trong vị trí tố tụng. Nguyên tắc suy đoán vô tội tạo bảo đảm cần thiết cho việc bảo vệ quyền con người, là lá chắn quan trọng để khắc phục tình trạng án oan, sai trong TTHS.
Vị trí của các chủ thể tố tụng
Cần từ bỏ cách chia các chủ thể quan hệ tố tụng thành CQTHTT, NTHTT, NTGTT. Tất cả phải đều là chủ thể các quan hệ tố tụng và trên cơ sở xác định rõ ràng mục đích và lợi ích của các chủ thể đó mà hình thành các bên trong quan hệ tố tụng. Các bên cần được quyền ngang nhau về khả năng đưa ra chứng cứ, lấy lời khai người làm chứng. Cần tăng cường những bảo đảm cho tính công khai của hoạt động điều tra.
Các chức năng tố tụng
Sự bình đẳng của các chủ thể cùng với sự phân biệt rõ hơn, độc lập hơn các chức năng tố tụng là đảm bảo quan trọng cho tính dân chủ và tính tranh tụng của TTHS. Cần nhận thức sâu hơn rằng, sự phân định chức năng tố tụng có cội nguồn không phải từ nước Anh hay nước Mỹ mà từ định hướng về cơ chế quyền lực nhà nước ở Việt Nam theo Điều 2 của Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001. Theo đó, Viện kiểm sát, trong vai trò là cơ quan buộc tội, là nhân vật của hành pháp có chức năng buộc tội; Tòa án có vị trí độc lập của cơ quan tư pháp. Tòa án không thể thực hiện bất kỳ một yếu tố nào của chức năng buộc tội mà phải là thiết chế của công lý, chỗ dựa đáng tin cậy của người dân, do đó cần có vị trí vô tư, khách quan, từ bỏ vai trò quá chủ động và tích cực trong việc truy tìm sự thật vốn là công việc của các bên trong tố tụng.
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam
Thực tiễn hoạt động tư pháp cho thấy rằng, oan sai thường xảy ra chủ yếu là trong quá trình chứng minh vụ án. Vì vậy, đổi mới TTHS cần được thực hiện theo hướng từ bỏ quy định về việc công nhận giá trị chứng minh của chứng cứ. Triệt để thực hiện nguyên tắc: mọi chứng cứ đều có giá trị ngang nhau, bất kể chúng được đưa vào hồ sơ “một cách chính thức” hay không. Bị can, bị cáo, người bào chữa được quyền tìm kiếm chứng cứ bằng bất cứ phương thức hợp pháp nào. Chứng cứ và chứng minh chỉ có giá trị sau khi được trình ra và lập luận tại phiên tòa. Điều đó có nghĩa là phải song song thừa nhận những chứng cứ có trong hồ sơ và ngoài hồ sơ vụ án. Xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa phải bảo đảm sự bình đẳng của các bên và khả năng của các bên trong việc trình bày quan điểm, chứng cứ của mình.
Như vậy, mô hình mới cho TTHS Việt Nam là mô hình kế thừa những yếu tố hợp lý của TTHS hiện nay, kiên quyết loại bỏ những yếu tố phản ánh cơ chế quan liêu; thiếu bình đẳng, công khai, dân chủ trong quan hệ giữa các chủ thể tố tụng, tiếp thu những yếu tố dân chủ phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN. Mô hình đó cần phản ánh cho được những đặc trưng quan trọng nhất trong ba yếu tố: buộc tội – bào chữa – xét xử với ba nhóm chủ thể: công tố (Viện kiểm sát) – bị can, bị cáo, người bào chữa – Tòa án. Có thể diễn đạt ý tưởng đó theo sơ đồ dưới đây:
Như vậy, theo mô hình này, vị trí và các mối quan hệ giữa các chủ thể được xác định như sau:
- Quan hệ giữa bên buộc tội và bên bị can, bị cáo là quan hệ bình đẳng, thể hiện sự bình đẳng giữa Nhà nước và cá nhân, kể cả trong TTHS.
- Quan hệ giữa Tòa án và Cơ quan điều tra, Công tố là quan hệ phân quyền và theo nguyên tắc về sự độc lập của Tòa án. Vì vậy, hồ sơ vụ án được lập trong giai đoạn điều tra chỉ được coi là một trong những cơ sở để đánh giá đường đi của vụ án mà không phải là cơ sở duy nhất đối với Tòa án.
- Quan hệ giữa Tòa án với bị cáo là quan hệ được xác định theo nguyên tắc suy đoán vô tội. Không có suy đoán vô tội thì mục đích bảo vệ quyền con người mà TTHS đặt ra không thể thực hiện được.


(1) V.I.Lenin: Bút ký triết học. Toàn tập, T. 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 179.


GS. TSKH. Đào Trí Úc

Comments

Popular posts from this blog

[Hack crack] Tổng hợp Google Dork

[Security] Internet blackout scheduled in protest of SOPA