[Tài liệu] Ưu điểm, hạn chế của mô hình Tố tụng hình sự ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện

Với các đặc điểm nêu trên, mô hình TTHS nước ta thời gian qua đã phát huy tác dụng tích cực trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và từng bước đáp ứng yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong điều kiện trình độ dân trí cũng như kinh tế còn thấp. Cụ thể là:
- Việc phân chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành các giai đoạn tố tụng và tương ứng với mỗi giai đoạn tố tụng đó có sự phân định rành mạch về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như quy định chặt chẽ thời hạn tố tụng của mỗi hoạt động tố tụng để cùng hướng đến một nhiệm vụ chung là tìm đến sự thật khách quan của vụ án đã làm cho các hoạt động tố tụng có tính chuyên nghiệp, giai đoạn tố tụng sau kiểm nghiệm lại kết quả của giai đoạn tố tụng trước.
- Việc quy định vai trò tích cực, chủ động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tìm kiếm chứng cứ, xác định sự thật khách quan của vụ án đã cho phép chúng ta kiểm soát được tình hình tội phạm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ phát hiện tội phạm đạt cao (đạt trên 70%, trong đó án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt gần 95% số vụ phạm tội xảy ra). Việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội được hạn chế một cách căn bản.
- Sự tham gia của Viện kiểm sát ở tất cả các giai đoạn tố tụng với hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đã góp phần quan trọng bảo đảm cho các giai đoạn tố tụng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, bảo đảm quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trong điều kiện trình độ dân trí còn thấp, đội ngũ luật sư còn thiếu về lượng và hạn chế về chất lượng (theo thống kê, số vụ án hình sự có luật sư tham gia chỉ chiếm 20% tổng số vụ án đã giải quyết).
- Việc giải quyết vụ án hình sự được tiến hành khẩn trương, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí tố tụng.
Tuy nhiên, trong quá trình vận hành, mô hình TTHS nước ta đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập sau đây:
- Việc tổ chức các hoạt động TTHS ở nước ta cho thấy, đang có sự mâu thuẫn, chồng lấn giữa các chức năng cơ bản của TTHS. Cùng một chủ thể pháp luật, nhưng lại được giao thực hiện đồng thời nhiều chức năng tố tụng khác nhau. Xu hướng phát triển của nền tố tụng dân chủ đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Toà án phải là hiện thân của công lý, phải khách quan trong việc đưa ra các phán quyết. Tuy nhiên, Toà án ở nước ta lại có vai trò quá chủ động, tích cực trong phiên toà sơ thẩm và đang được giao thực hiện một số thẩm quyền không phù hợp với chức năng xét xử. Toà án có thẩm quyền trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thấy thiếu những chứng cứ quan trọng hoặc khi có căn cứ cho rằng bị cáo còn phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; Hội đồng xét xử được quy định là người hỏi chính và hỏi đầu tiên tại thủ tục xét hỏi và hỏi về toàn bộ các vấn đề của vụ án; có quyền khởi tố vụ án; có quyền xét xử bị cáo vượt ra ngoài giới hạn truy tố của Viện kiểm sát; có quyền tiếp tục xét xử trong trường hợp Viện kiểm sát đã rút toàn bộ quyết định truy tố tại phiên toà v.v..
- Về nguyên lý, bên nào thực hiện việc buộc tội, bên đó phải có trách nhiệm chứng minh, lập luận cho các cơ sở, lý lẽ của việc buộc tội. Tuy nhiên, tại phiên toà sơ thẩm, pháp luật chuyển trách nhiệm chứng minh tội phạm từ bên buộc tội (Viện kiểm sát) sang bên Toà án nên chưa tạo điều kiện để phát huy tính chủ động, tích cực và trách nhiệm của cơ quan buộc tội (Viện kiểm sát) trong việc thực hiện chức năng tố tụng của mình.
- Tính thụ động và bị lệ thuộc của người bào chữa vào các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn là điểm dễ nhận thấy trong TTHS nước ta. Pháp luật đang thiếu các cơ chế để người bào chữa thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các quyền năng tố tụng đã được luật định và để người bào chữa bảo vệ quyền của mình trước sự vi phạm của các chủ thể khác, đặc biệt là sự vi phạm từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Cả trên bình diện pháp lý và thực tiễn, người bào chữa chưa được bảo đảm các cơ hội để trở thành một bên bình đẳng với bên buộc tội trong việc thực hiện chức năng bào chữa của mình.
- Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra là quan hệ phối hợp và chế ước. Viện kiểm sát có vai trò và trách nhiệm quan trọng trong quá trình điều tra. Tuy nhiên, cơ chế để bảo đảm quan hệ phối hợp và chế ước này chưa được quy định chặt chẽ, nhiều yêu cầu của Viện kiểm sát chưa được Cơ quan điều tra thực hiện, song lại không có biện pháp chế tài để xử lý. Thực tế này dẫn đến tình trạng trả hồ sơ giữa các cơ quan tố tụng, kéo dài thời hạn tố tụng, ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu chống oan, chống lọt trong TTHS.
- Yêu cầu nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án ở nhiều lúc, nhiều nơi vẫn mang tính chủ trương, chưa được quán triệt thực hiện nghiêm túc trên thực tế. Ý kiến tranh tụng của luật sư ở một số phiên toà chưa thực sự được xem xét và ghi nhận một cách thoả đáng.
- Việc quá nhấn mạnh phương pháp điều tra, đặc biệt với việc tiếp tục ghi nhận một cách đậm nét phương pháp tố tụng này tại giai đoạn xét xử thông qua việc quy định Hội đồng xét xử là người hỏi chính, hỏi đầu tiên và hỏi về toàn bộ các vấn đề trong vụ án đã dẫn đến sự thụ động của Kiểm sát viên trong việc chứng minh quan điểm buộc tội của mình, hạn chế một cách căn bản tính tích cực của bên bào chữa trong việc lập luận các chứng cứ gỡ tội, phản bác quan điểm của bên buộc tội; hạn chế sự cọ sát giữa chứng cứ, lập luận của bên buộc tội và bên bào chữa.
3. Phương hướng hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam      
Thực tiễn vận hành các mô hình TTHS đã chỉ ra rằng, mỗi mô hình đều có những hạt nhân hợp lý của nó và đều có những hạn chế không tránh khỏi. Việc áp dụng mô hình TTHS thẩm vấn ở nước ta trong suốt thời gian qua đó cho phép chúng ta kiểm soát được tình hình tội phạm, bảo đảm được trật tự, an toàn xã hội; từng bước đáp ứng yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng trong điều kiện trình độ dân trí cũng như kinh tế còn thấp. Nhưng trong điều kiện hiện nay, tình hình kinh tế - xã hội đó có những bước phát triển mới, đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm pháp luật, những thay đổi này đòi hỏi phải có những cải cách trong TTHS.
Chúng tôi nhận thức rằng, chủ trương tăng cường tranh tụng đề ra trong các Nghị quyết của Đảng là nhằm mở rộng và tăng cường hơn nữa môi trường dân chủ, tính công khai, minh bạch, công bằng của quá trình giải quyết vụ án hình sự; thiết lập các cơ chế để bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người, bảo đảm quyền dân chủ cho bị can, bị cáo và người đại diện của họ, mở ra các khả năng và điều kiện tốt nhất để họ thực hiện quyền bào chữa; bảo đảm quá trình giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, triệt để, vô tư; bảo đảm việc giải quyết vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chủ trương tăng cường tranh tụng không đồng nhất với việc từ bỏ mô hình TTHS nước ta hiện nay để chuyển sang mô hình TTHS tranh tụng. Cần thiết tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm vốn có của mô hình TTHS thẩm vấn, tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Trên cơ sở đó, cần tiếp tục khẳng định và phát huy những nội dung đặc trưng của TTHS thẩm vấn hiện đang phát huy tác dụng tích cực trong mô hình TTHS nước ta, phù hợp với các đặc điểm về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, truyền thống pháp lý của Việt Nam, cụ thể là:
- Tiếp tục xác định Toà án có trách nhiệm trong việc xác định sự thật vụ án. Theo đó, Toà án vẫn nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên toà. Tại phiên toà, sau phần thẩm vấn của Kiểm sát viên và người bào chữa mà thấy còn những vấn đề chưa rõ, chưa đủ cơ sở cho việc ra phán quyết thì Thẩm phán yêu cầu Kiểm sát viên, người bào chữa thẩm vấn thêm hoặc trực tiếp tiến hành thẩm vấn bị cáo, nhân chứng và những người tham gia tố tụng khác...
- Tiếp tục khẳng định nhiệm vụ của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là đi tìm sự thật vụ án, tìm kiếm cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội.
- Tiếp tục khẳng định và tăng cường hơn nữa vai trò của Viện kiểm sát trong TTHS, đặc biệt là trong giai đoạn điều tra vụ án. Viện kiểm sát không chỉ đóng vai trò là một bên trong TTHS (bên buộc tội) như trong mô hình TTHS tranh tụng, mà Viện kiểm sát còn có trách nhiệm bảo đảm chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chống làm oan người vô tội, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự.
- Tiếp tục ghi nhận giá trị chứng minh của các chứng cứ viết nếu thoả mãn đầy đủ các yêu cầu của chứng cứ về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
Đồng thời, để tiếp tục thể chế hoá chủ trương của Đảng về tăng cường tranh tụng, cần tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng vào TTHS nước ta, đó là:
- Tạo lập cơ chế để bảo đảm sự bình đẳng thực sự giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong việc thực thi các chức năng buộc tội và bào chữa. Đề cao vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng.
- Quy định đầy đủ các quyền và xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS; tạo các điều kiện về pháp lý và thực tiễn để bị can, bị cáo và người bào chữa của họ thực hiện quyền chứng minh sự vô tội hoặc giảm tội, giảm nhẹ hình phạt; có biện pháp chế tài để xử lý kịp thời, nghiêm minh hành vi vi phạm quyền của những người tham gia tố tụng, nhất là vi phạm từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
- Phân định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS: buộc tội, bào chữa và xét xử. Đưa các chủ thể về đúng vị trí, vai trò tố tụng của mình.
- Cải tiến các thủ tục tố tụng tại phiên toà để bảo đảm tranh tụng dân chủ, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Phát huy vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong việc thực hiện chức năng buộc tội thông qua việc xác định rõ chứng minh tội phạm là nghĩa vụ của bên buộc tội (Viện kiểm sát, Kiểm sát viên). Bên bào chữa được tạo cơ hội bình đẳng như Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng bào chữa, chứng minh bị can, bị cáo không phạm tội hoặc giảm tội, giảm mức hình phạt. Toà án phải thực sự là hiện thân của công lý, của sự khách quan, vô tư trong quá trình xét xử vụ án. Toà án chỉ thực hiện chức năng xét xử, không thực hiện việc buộc tội bị cáo. Bất cứ thẩm quyền nào của Toà án mâu thuẫn với chức năng xét xử, ảnh hưởng đến tính khách quan của Toà án đều phải bị loại bỏ. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để các bên tranh tụng dân chủ tại phiên toà; tôn trọng và lắng nghe đầy đủ ý kiến của các bên, ra phán quyết trên cơ sở kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên toà.
- Nghiên cứu, tiếp thu một số nguyên tắc đặc trưng của tố tụng tranh tụng phù hợp với yêu cầu dân chủ hoá hoạt động TTHS ở nước ta, bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án hình sự như: nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội.
TS. Lê Hữu Thể - Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; ThS. Nguyễn Thị Thủy - Trưởng phòng Viện Khoa học kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Source: Báo NCLP

Comments

Popular posts from this blog

[Hack crack] Tổng hợp Google Dork

[Security] Internet blackout scheduled in protest of SOPA