[Tài liệu] Quy định đối với Người chưa thành niên phạm tội
4. XÉT XỬ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 4.1. Thủ tục tố tụng với người chưa thành niên phạm tội 4.1.1. Xác định luật áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
4.1.2. Xác định chính xác tuổi của người chưa thành niên thực hiện tội phạm
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
- Nếu chỉ xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày nào trong tháng đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo; - Nếu xác định được quý cụ thể của năm sinh, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quý đó làm ngày tháng năm sinh của bị can, bị cáo; - Nếu xác định được nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong nửa đầu năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày 30-6 hoặc 31-12 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo; - Nếu không xác định được nửa đầu hay nửa cuối năm, quý nào, tháng nào trong năm thì lấy ngày 31-12 của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo.
4.1.3. Bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
- Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có thể bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam, nếu họ phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và khi có đầy đủ căn cứ quy định tại Điều 80, 82, 86, 87, 88 và 120 BLTTHS; - Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam nếu họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
4.1.4. Bảo đảm việc bào chữa cho người chưa thành niên phạm tội
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
4.1.5. Xét xử người chưa thành niên phạm tội
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
- Tại phiên toà xét xử bị cáo là người chưa thành niên phải có mặt đại diện gia đình bị cáo, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên đang học ở trường hoặc đang học tập, sinh hoạt trong một tổ chức nào đó thì phải có đại diện của nhà trường, tổ chức (đoạn 1 khoản 3 Điều 306 BLTTHS); - Trong trường hợp đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức có tham gia phiên toà thì họ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, tham gia tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của Toà án (đoạn 2 khoản 3 Điều 306 BLTTHS); - Thành phần HĐXX phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (khoản 1 Điều 307 BLTTHS). Đối với Thẩm phán phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên (khoản 1 Điều 302 BLTTHS). 4.2. Về đường lối xử lý
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
4.3. Quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội
Công việc chính và kỹ năng thực hiện:
- Xác định mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội như đối với trường hợp người phạm tội là người đã thành niên; - Trường hợp người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì hình phạt áp dụng đối với họ là 3/4 mức hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 11.1 mục 11 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP; - Trường hợp người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hình phạt áp dụng đối với họ là 1/2 mức hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 11.1 mục 11 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP; - Ví dụ: A là người chưa thành niên phạm tội “vận chuyển trái phép chất ma tuý” thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 194 của BLHS, có khung hình phạt từ 15 năm đến 20 năm tù thì trước hết cần xem A là người đã thành niên phạm tội. Do có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được áp dụng Điều 47 của BLHS, nếu A là người đã thành niên thì xét xử A mức hình phạt 12 năm tù là thoả đáng. Vì A là người chưa thành niên, nếu A từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì mức hình phạt đối với A là 9 năm tù (3/4 của 12 năm tù); nếu A là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì mức hình phạt đối với A là 6 năm tù (1/2 của 12 năm tù).
- Trường hợp theo cách tính được hướng dẫn tại tiểu mục 11.1 mục 11 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP, mà mức hình phạt tù được xác định đối với người chưa thành niên phạm tội thấp hơn mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn (ba tháng) thì cần áp dụng loại hình phạt khác nhẹ hơn đối với họ mà không được áp dụng hình phạt tù dưới ba tháng. - Trường hợp theo cách tính được hướng dẫn tại tiểu mục 11.1 mục 11 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP, mà mức hình phạt tù được xác định đối với người chưa thành niên phạm tội có số dư ngày không tròn tháng thì chỉ nên áp dụng mức hình phạt tù bằng số tròn tháng. |
Comments
Post a Comment
Để lại góp ý của bạn để blog của mình hoàn thiện hơn :))